Tiểu sử Trường Nữ Trung Học Hồng Đức Đà Nẵng |
|||
(viết theo lời của thầy Đỗ Nguyên) |
|||
Trường được lập ra cuối năm 1967, sau khi niên khóa 67-68 đã bắt đầu. Địa điểm được chọn nằm trên đường Thống Nhất, cạnh trường trung học Phan Châu Trinh và Nam Tiểu Học. Ngôi trường được xây trên một nghĩa trang cũ của người Pháp, có người mê tín cho là không tốt nên yểu mệnh.
Dòng đời trôi, những nữ sinh trường Hồng Đức bâ giờ đã có người thành đạt, có người còn l đận, mỗi người một số phận ới niềm ui à nỗi buồn khác biệt nhưng khi có dịp gặp lại nhau lại tay bắt mặt mừng, sống trở lại cái thời của tuổi hoa niên... |
|||
|
|||
Trang web NTH trân trọng giới thiệu một bài viết của thầy Đỗ
Nguyên, Quản thủ Thư Viện Trường và cũng là giáo sư Sử Địa. Đây tuy là bài viết về người Hiệu Trưởng khả kính nhưng cũng cho ta thấy được diễn tiến hoạt động và sự lớn mạnh nhanh chóng của ngôi trường trong một thời gian rất ngắn. |
|||
NHỚ VỀ BÀ HIỆU TRƯỞNG Thầy Đỗ Nguyên
|
|||
Đoạn I viết vào ngaỳ
23/5/2010
Các em
cưụ nữ sinh Hồng Đức thân mến, Hôm qua
một đại diện cưụ nữ sinh đến nhà thăm chúng tôi, cho biết về đề nghị của
các em muốn tôi viết một bài về bà Nguyễn Khoa Diệu Liễu, Hiệu trưởng cũ
Hồng Đức. Tôi không rõ bài viết ấy để đăng vào đặc san Hồng Đức hải
ngoại hay để tường trình trước Đại hội Hồng Đức sẽ tổ chức vào cuối
tháng này ở Houston - Texas. Tôi rất ngại là nhận xét hay tìm hiểu về bà
HT của tôi có thể là rất chủ quan, không chính xác, thậm chí còn là
ngoài ý muốn của bà. Ký ức về những chuyện đã xảy ra gần nửa thế kỷ nay,
đối với một người không còn sáng suốt như tôi hiện nay, có thể đưa đến
những nhầm lẫn đáng tiếc. Vậy tôi viết những trang giấy này như một bức
thư riêng, cung cấp cho em
một số tin tức để em tùy nghi sử dụng, điều chỉnh như những lần trước… Trước
năm 1968 tôi không hề quen biết với bà Diệu Liễu và chưa có lần nào gặp
gỡ bà ấy. Nhưng vì là người Đà Nẵng, tôi cũng biết ít nhiều về vị HT của
trường Nữ Trung Học (NTH) duy nhất của thành phố này. Bà là người gốc
Huế, thuộc dòng họ Nguyễn Khoa danh giá của đất thần kinh. Bà là ái nữ
của ông Nguyễn Khoa Toàn, một nhà giáo và nhân sĩ miền Trung. Bà cũng là
phu nhân của ông Nguyễn Văn Đãi, Đại biểu Chính Phủ VNCH tại Đà Nẵng
trước năm 1968. Trong vụ biến cố Tết Mậu Thân ông Đãi đã bị các lực
lượng vũ trang giải phóng bắt giữ tại Huế và đưa ra Bắc. Tôi có dịp tiếp
chuyện lần đầu tiên với bà Đãi (thời đó người ta thường gọi bà theo tên
chồng) do ông Lê Quang Cảnh, giáo sư trường NTH Đà Nẵng đưa tôi tới thăm
bà tại ngôi biệt thự trên đường Hoàng Hoa Thám (mà bà phải từ bỏ ít lâu
sau). Tôi diện kiến một người phụ nữ đẹp, đài các, ăn nói điềm đạm. Lúc
đó bà chỉ hơn 40 tuổi, xa chồng chỉ hơn nửa năm, nỗi đớn đau còn lớn
nhưng bà che dấu được sự xúc cảm, ngồi nói chuyện với chúng tôi, bà chỉ
bàn về việc dạy học một cách sôi nổi. Năm ấy tôi đang dạy học ở trường
Quốc Học -Huế, đang có ý muốn thuyên chuyển về Đà Nẵng để gần gia đình
và qua cuộc gặp gỡ lần đó, tôi chọn nhiệm sở ưu tiên là Trường NTH Đà
Nẵng để chia sẻ với bà HT về sự khó khăn thiếu giáo chức của một trường
tân lập. Sau này tôi thấy hài lòng về sự chọn lựa này vì Trường Nữ đã để
lại cho tôi quá nhiều kỷ niệm êm đẹp.
Tôi về Trường NTH Đà Nẵng vào đầu niên khóa 1969-1970. Lúc ấy Trường đã thành lập được hai năm nhưng còn thiếu thốn mọi bề. Cả ngôi trường chỉ là một dãy nhà trệt làm lớp học nhìn ra đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn) và một bộ phận văn phòng trên mặt bằng không rộng lớn lắm (nguyên là một nghĩa trang của người Pháp mới được giải tỏa). Thư viện- đúng hơn là một phòng đọc sách- chỉ là một lớp học được trưng dụng. Tôi không biết lúc ấy số lượng lớp học là bao nhiêu nhưng trường chỉ mới có đến lớp 11 (ba lớp A,B,C). Số lượng giáo chức cũng thiếu, các giáo chức chính thức ở Đệ Nhị cấp chưa đến mười người nên trường phải nhờ sự trợ giúp của các giáo sư dạy giờ ở Trường Phan Châu Trinh qua đảm nhận trong nhiều bộ môn. Tôi nêu ra những chi tiết trên để thấy được sự cố gắng của bà HT trong công việc phát triển Trường NTH của chúng ta.
Chỉ hơn ba năm sau, phòng ốc nhà trường đã tăng lên hơn gấp đôi diện tích: dãy phòng học nhìn ra đường Thống Nhất được nâng lên một tầng, cánh trái và cánh phải sân trường cũng mọc lên hai dãy lớp với một tầng lầu, gần khối văn phòng có xây một sân chơi (préau) để học sinh tụ tập trong giờ ra chơi và dùng làm nơi biểu diễn thể thao (dự kiến sẽ xây thêm ở phía trên một hội trường nhưng chưa kịp thực hiện). |
|||
Đặc
biệt năm 1972, Trường khánh thành một Thư viện khang trang nằm ở vị trí
trung tâm- nơi diễn ra các hoạt động văn hóa-, và một phòng Nữ công Gia
chánh lớn. Vẻ khô khan của sân trường được đắp đổi bằng màu xanh của các
hàng cây bạc hà, long não và cây sứ do chính thầy trò Trường Nữ trồng.
Những công trình vật chất đó, so với nhiều trường lớn trong nước, thật
ra không phải là quá lớn lao, nhưng nên nhớ, vào thời điểm đó, ngân sách
nhà nước dành cho một Trường Trung học nhỏ tân lập như Trường Hồng Đức
không phải là dồi dào, quỹ của Hội Phụ huynh không lấy gì là phong phú
nên người đứng đầu cơ quan phải cố gắng tìm được các nguồn tài trợ.
Nhưng
yếu tố con người mới là quan trọng hơn hết đối với nơi “trồng người”.
Đến năm 1972, Trường NTH đã có số lượng giáo sư đầy đủ cho mọi bộ môn,
trong đó chính bà HT phụ trách dạy môn Pháp Văn ở một số lớp. Số lượng
HS tăng đáng kể, dù được chọn vào học ở lớp 6 hay lớp 10 không phải là
dễ dàng. Ngoài việc học tập, các em còn tham gia hăng hái trong nhiều
sinh họat ngoại khóa như thể thao, hùng biện, nữ công gia chánh và dã
ngoại. Bà HT là người rất tích cực trong việc đôn đốc các sinh hoạt đó.
Trong một bức thư gởi cho tôi từ Mỹ đề ngày 3/3/1994, bà đã viết: “Không
làm sao quên được những năm tháng cùng nhau sinh hoạt, xây dựng cho
trường tăng tiến, cùng đào tạo học sinh nên người… trường mình cái gì
cũng quý báu hết phải không? Thư viện, Phòng Thí nghiệm, Phòng Nữ công
Gia chánh… không kể con người Hồng Đức còn quý báu gấp bội “…
Năm
1974, Bộ Giáo dục VNCH cho đổi tên Trường NTH Đà Nẵng thành Trường NTH
Hồng Đức theo đề nghị của Hội đồng giáo sư nhà trường. Hồng Đức là niên
hiệu của vua Lê Thánh Tông, một minh quân và bậc nhất của Việt
|
|||
Đây cũng
là cuộc gặp gở thân mật cuối cùng của bà HT với học sinh Hồng Đức vì chỉ
vài hôm sau cả trường Hồng Đức đang còn giăng đầy cờ hoa, tranh ảnh chưa
kịp tháo dỡ của “tuần lễ Hồng Đức” biến thành một trại tỵ nạn lớn của
đồng bào từ Quảng Trị, Thừa Thiên Huế chạy vào lánh nạn chiến tranh. Họ
chiếm tất cả các phòng học để ở- ngoại trừ Thư viện vì may thay trước
ngày đó, một số học sinh của trường và chúng tôi đã kịp thời khiêng bàn
ghế chất đầy Thư viện và khóa chặt cửa để bảo vệ sách vở. Một ủy ban cứu
trợ được thành lập mà bà HT là trưỏng ban phụ trách việc phân phối thực
phẩm, thuốc men cho người tỵ nạn. Đó là một giai đoạn hết sức nhọc nhằn
và khó khăn vì phải đương đầu với nhiều vấn nạn mà chúng tôi không lường
trước và chưa quen giải quyết. Niềm vui của Lễ hội Hồng Đức sao quá cận
kề với nỗi buồn của trại tỵ nạn!
Thành
phố Đà Nẵng bước qua một trang mới của lịch sử trong ngày 29/3 với chính
quyền mới được thành lập. Trại tỵ nạn được giải tỏa, đồng bào tỵ nạn lần
lượt rời trường, bỏ lại quang cảnh hoang tàn như một bãi chiến trường.
Ban điều hành mới của nhà trường lo việc tái lập trật tự và vệ sinh, họ
huy động học sinh đến trường chùi rửa lớp học, sắp xếp bàn ghế, chuyển
tải các đống rác khổng lồ... Bà HT Nguyễn Khoa Diệu Liễu mặc nhiên từ bỏ
chức vụ Hiệu trưởng, nhưng vì không di tản vào Sài Gòn được, bà còn phải
lưu lại trường trong một thời gian ngắn nữa để bàn giao công việc cho
các cán bộ giáo dục mới.
Tôi nhớ
vào một ngày đầu tháng 4/75, bà Đãi đưa một đoàn cán bộ vào Thư viện để
làm thủ tục bàn giao. Bà vẫn mặc chiếc áo dài rất đẹp, dáng điệu khoan
thai, ăn nói từ tốn nhưng nghiệm nghị, tỏ rõ lòng tự trọng cần thiết.
Sau khi ký giấy bàn giao, Ban tiếp nhận đi xem các tử sách và các thiết
bị dạy học mà không đưa ra một ý kiến nào, duy chỉ hỏi là: tại sao miền
Một thời
gian ngắn sau ngày 29/3, bà Đãi còn có mặt vài lần trong các buổi họp
hội đồng giáo viên nhưng bà ngồi yên lặng như một chứng nhân trầm mặc.
Sau đó bà rời bỏ căn nhà nhỏ xinh ở đường Lê Lợi để vào Sài Gòn, chấm
dứt vĩnh viễn công việc dạy học (ít ra ở Việt
Sau
1975, chúng tôi có dịp vào Sài Gòn nhiều lần, lần nào cũng có thăm bà
Đãi, tại một ngôi nhà cũ đường Nguyễn Đình Chính, quận Phú Nhuận. Lúc
đó, ông Đãi vẫn chưa được phóng thích nên bà tỏ ra buồn và lo lắng tưởng
là tuyệt vọng. Tuy nhiên trong câu chuyện, đề
tài chính vẫn là Trưòng Hồng Đức, bà luôn hỏi thăm về các bạn
đồng nghiệp đã đi ra nước ngoài hay còn ở lại Đà Nẵng. Một thời gian dài
không liên lạc với bà, tôi không hiểu rõ ông Đãi đã từ miền Bắc về Sài
Gòn năm nào, nhưng qua bức thư từ San Francisco Mỹ, đề ngày 6/5/1988 tôi
được biết cả ông bà đã rời Việt Nam từ năm 1984 và rất vui mừng về sự
hội ngộ của hai ông bà sau bao nhiêu năm chờ đợi. Bức thư đề ngày 3/3/94
có kèm theo bức ảnh chụp chung của hai ông bà, xem ra hai người rất
phong độ, tưởng còn sống hạnh phúc với nhau lâu dài… Thư tín rồi cũng có
lúc đứt đoạn, tôi không biết gì thêm tin tức của ông bà Đãi. Bỗng một
ngày, tình cờ tôi đọc trên một đặc san của trường Đồng Khánh (in tại Mỹ)
năm 2007 thấy có bài viết của tác gỉa Thu Phong với nhan đề: “Kỷ niệm
cuối cùng của thầy Nguyễn Văn Đãi, bút hiệu Hoàng Liên” mới biết là ông
Đãi đã từ trần nhưng bài báo không ghi ngày tháng ông mất. Tuổi của ông
Đãi đã quá cao, việc ra đi của ông là chuyện bình thường nhưng tội cho
bà Đãi lại một lần nữa chịu sựu chia ly, lần này là vĩnh viễn. Tôi ngạc
nhiên một điều là trước đây tôi cứ tưởng ông Đãi là một nhà hành chánh,
nhưng không ngờ ông còn là một nhà văn với bút hiệu Hoàng Liên và có một
thời là nhà giáo nên sự đồng cảm của ông bà càng lớn lao.
Cách đây
5, 6 năm tôi được tin bà Đãi về Hà Nội sống với người con trai, anh
Nguyễn Quý Đức, hiện đang làm việc cho một cơ quan ngoại quốc có nhiệm
sở ở ngoài đó. Trên 85 tuổi, bà không thể sống một mình mà cần một điểm
tựa, đó là điều tự nhiên và cần thiết. Bà mong có ngày về thăm Việt Dạo nọ
tôi có gọi điện thoại về địa chỉ nhà bà ở Hà Nội. Có người trả lời ở đầu
giây nhưng một giọng nói khó nghe, tôi không hiểu gì hết. Về sau tôi
được biết bà bịnh Alzheimer làm tôi liên tưởng đến căn bịnh quái ác của
ông TĐQ, bạn đồng nghiệp của tôi đã từ trần từ năm 2003 sau một thời
gian dài chịu đựng đau đớn. Tôi bỗng nhiên lo sợ cho bà HT cũ của chúng
ta. Có lẽ bà chỉ mới bị bịnh thôi, thời gian còn dài để một ngày kia
chúng ta có thể gặp bà, nhìn lại khuôn mặt vẫn luôn luôn tươi sáng chứa
chan tình nhân ái. |
|||
Các em
thân mến, Tôi lại
nghe các em nhắc nhiều lần qua cô Thanh về việc gởi bài cho BBT đặc san
Hồng Đức hải ngoại nhân dịp Lễ hội Hồng Đức ở Tôi vốn
không có khả năng văn chương và gần như chưa gởi bài đăng báo lần nào
nên cứ hẹn rày hẹn mai mãi. Tôi sực nhớ cách đây hai năm có viết một bài
về bà HT và đã gởi bản thảo nơi cô Thanh
rồi, nhưng bài viết không chuyển được đến em vì đã quá hạn. Thời điểm
tháng 5/2012 ấy nhà tôi - cô Ngọc Khuê, đang đau nặng nên tôi không đủ
tâm trí để lo những việc khác. Mới đây tôi lấy lại bản thảo cũ và gởi
cho em đây.
Như tôi
đã nói ở trên, tôi rất lưu tâm đến sức khỏe của bà HT, mong có dịp đi
thăm bà đang nghỉ dưỡng ở Hà Nội (sau đó là Tam Đảo) nhưng trong nhiều
năm tôi không thể thực hiện được ý muốn. Không ngờ cuối tháng 6/2011,
tôi được tin bà HT đã từ trần tại Tam Đảo (do các em loan báo tin trên
website Nữ Trung Học). Thầy trò chúng tôi ở Đà Nẵng rất xúc động về tin
buồn này, định tổ chức một buổi lễ cầu siêu cho bà. Càng bàng hoàng hơn
khi chỉ trên một năm đã có ba cô giáo Hồng Đức lìa trần: Cô Mỹ Hà (tháng
2/2010), cô Ngọc Khuê (tháng 7/2010), và bà Diệu Liễu (tháng 6/2011).
Chúng
tôi không có ý định ra Hà Nội dự lễ tang bà HT vì đường xá xa xôi, kèm
theo những khó khăn khác, vả lại thời gian cũng quá cấp bách. Nhưng có
một yếu tố bất ngờ làm tôi thay đổi dự định: Sáng ngày 30/6/2011, khi
tôi đi ngang qua trường Hồng Đức cũ tôi thấy người ta đang đập phá Thư
viện và phòng Nữ công Gia chánh để lấy mặt bằng xây dựng một tòa nhà cao
tầng, mở rộng cơ sở cho Đại học Đà Nẵng. Công việc đó là thường tình có
thể là lợi ích nữa, nhưng về mặt tình cảm tôi thấy se lòng bởi vì những
công trình mà xưa kia bà HT tự hào khi thực hiện nay lại bị phá hủy vào
thời điểm mà bà giả từ “cõi tạm” này. Tôi quyết định ra Hà Nội để “gặp”
bà bởi vì tôi sợ những gì thuộc về quá khứ thân yêu sẽ không còn nữa. Có
hai cựu nữ sinh Hồng Đức cũng muốn ra Bắc với tôi là TT Thanh Trúc và
Trần Thị Em, chuyến bay vào sáng sớm hôm sau 1/7. Chiều hôm đó, lúc 18g,
chúng tôi đến viếng bà HT ở nhà tang lễ thành phố, chia buồn cùng anh
Nguyễn Quý Đức hiện đang ở Hà Nội và cô Nguyễn Thị Diệu Hà mới từ Mỹ về
với mẹ. Nơi đây, tôi cũng gặp cô Đặng Thị Liệu, người bạn thân của bà
HT, may mắn đã về thăm Việt
Lễ tang
được cử hành đơn giản nhưng cũng đủ nghi thức cần thiết, duy số người dự
lễ thì quá thưa thớt. Tôi thầm nghĩ là: nếu bà HT mất ở Đà Nẵng, Huế,
Sài Gòn, thậm chí ở Mỹ thì chắc chắn sẽ có không biết bao nhiêu thân
quyến bạn bè và học trò cũ ở bên cạnh bà trong những giờ phút cuối cùng.
Sáng hôm sau 2/7, chúng tôi đưa tiễn bà đến nhà hỏa táng Văn Điển trên
cùng một chiếc xe tang. Cảnh neo đơn này làm chúng tôi bùi ngùi xúc động
nhưng tôi cũng hiểu là các con của bà đã làm hết bổn phận của mình cho
người mẹ thân yêu. Vĩnh
biệt Bà HT kính mến của trường NTH Hồng Đức chúng ta.
Thầy Đỗ Nguyên
Quản thủ Thư Viện Giáo Sư Sử Địa |
|||