![]() |
bài thơ... vẫn chưa quên |
||
Tôi không phải là “người di tản buồn”, tôi buồn hơn người di tản
nữa, bởi những năm tháng còn lại sau ngày 30 tháng Tư, bởi đã ra đi trên
những chuyến tàu rất mong manh mà không có được dịp trở lại quê nhà nuôi
lớn tôi suốt cả 18 năm đầu đời. Những chuyến đi không lời từ giã bởi vì
tôi có biết bến bờ nào mình sẽ tới đâu. Những chuyến đi đong đầy lo âu…
đầy hy vọng. Ai đã đẩy đưa tôi đến xứ bình an này, chắc… duyên từ bao
nhiêu kiếp trước vấn vương hoài cho đến kiếp nay. Học trường Phan Châu Trinh trong những năm đầu trung học, tôi được
chuyển qua trường Nữ Trung Học Hồng Đức 1967. Mùa hè đỏ lửa 1972
tôi ở trong Ban Cứu Trợ cùng làm việc với các Thầy Cô cho đến người dân
tỵ nạn cuối cùng rời khỏi trung tâm tạm cư NTH Hồng Đức. Trong thời gian
đó Ba tôi, chỉ một lần, cho cô con gái đến quan sát hoạt động của Ban
Cứu Trợ trung ương của thành phố Đà Nẵng. Rồi tôi vẫn phải ngồi thi kỳ
Tú tài I để lên lớp 12 và là Tổng Thư Ký Ban Đại Diện Học Sinh niên khóa
1972-1973. Cùng sinh hoạt với tất cả các bạn, căng thẳng với ban học tập
khi mang chuông đi xứ người, lo lắng với ban xã hội không biết có đủ quà
cho người lính trẻ khi về hậu cứ chưa… đối với ban văn nghệ thì thật
lòng thưởng thức… ban thể thao là ủng hộ nhiệt tình và với ban báo chí… Sau kết quả tú tài II, tôi nói không học Luật như hướng dẫn của 1
thầy trong trường HĐ và chắc cũng là ý muốn im lặng của Ba. Không được
đi du học vì nếu bệnh thì ai sẽ lo và đi thì sẽ đi luôn không về… cũng
không được học Y Khoa vì là con gái. Buồn thấu ruột gan tôi xách gói xin
đi Huế chơi với cô bạn thân cùng lớp và tự mình quyết định sẽ ghi danh
học Sư phạm. Chỉ được hai, ba ngày thì một sáng nhận được điện thoại bắt
phải về nhà ngay. Bỏ lại cô bạn trên xứ đó, tôi về đến Đà Nẵng thì trời
sắp tối. “Con phải vô Saigon học Dược”, Me nói, “đây là vé máy bay”.
Sáng hôm sau được đưa ra phi trường, với chuyến bay đầu ngày đó tôi đã
không có dịp nói lời chia tay với thầy cô giáo sau bao nhiêu năm trung
học, với bạn cùng lớp cùng trường… không biết bao nhiêu điều để nhớ…
nhất là những khi tôi đến chơi với ban báo chí mà năm đó LTN là trưởng
ban. Đó là những giây phút êm đềm ngặm nhấm những bài thơ đẹp và những
đoản văn nhẹ như mây chiều trong gió. Có bài đến bây chừ tôi vẫn chưa
quên:
Khúc Tưởng Niệm
Đêm
qua ừ hoa bưởi Nở đầy
vườn chiêm bao Giật
mình ta với bóng Cũng u
hoài như nhau
Màu
trăng là nỗi nhớ Vàng
phai một cõi đời Ngậm
ngùi đêm trôi chậm Thời
gian nghe chơi vơi
Khói
hương là nước mắt Vẫn
thắp hoài đêm đêm Bóng
anh là năm tháng Nên
năm tháng dài thêm
Mơ hồ
từ xa vắng Đôi
mắt người đăm đăm Ba năm
trong huyệt lạnh Xương
cốt buồn lặng căm
Một
lần ta nhắm mắt Bao kỹ
niệm vỗ về Một
lần ta cúi mặt Máu về
tim tái tê
Đêm
qua ừ hoa bưởi Nở
trắng vườn chiêm bao Hương
xưa màu nguyệt lặng Gío về
đáy mộ sâu
Nghẹn
ngào ta đốt nến Người
có về đêm nay Ngậm
ngùi đêm trôi chậm Bóng
tối đầy đôi vai
Bao
năm sông núi hát Mang
mang sầu bên song Đêm
nay ừ hoa trắng Rụng
đầy một cõi không!.
Nguyên Thi Nguyên Thi là bút hiệu của LTN, cô bạn ban C - cùng ngang lớp, đã
cho chúng tôi thưởng thức không biết bao bài văn, bài thơ đầy rung cảm
từ những năm đầu mới lên trung học. LTN không xử dụng email, tôi - ở đây
- thỉnh thoảng nhận được một lá thư ngắn của LTN. Mỗi lá thư là như một
bài thơ với bao lời thương mến như những thư viết tay khác từ Đà Nẵng
của các Thầy Cô. Nhiều bạn khác, bằng email, bằng điện thoại nhiều giờ
không cắt… cứ làm day dứt nhớ Đà nẵng không nguôi, mỗi lần được liên lạc
là thêm một lần như nhận được bài thơ đẹp với nhiều điệu âm vang gợi nhớ
- nhất là những buổi chiều mưa trên bến sông xưa. Ở đây cũng có dòng
sông, nhưng chiều tôi không còn ra ngồi ngắm nữa bởi… sân sau đã vàng
rụng cánh mai gầy…
Mai
Tuyết Ánh
29/03/2010 |