Tưởng rằng đã quên Anh Trinh |
|||
|
|||
Thái Hòa
chở tôi đi quanh Đà Nẵng một vòng, nó nói:
- Chở mi
đi chơi vòng vòng mà ta cứ ngỡ đang nằm mơ Trang ơi.
Tôi ngồi
phía sau cảm động, nhớ hồi hai đứa còn cơ hàn. Hòa là đứa bạn thân đã
từng chia sẻ với tôi suốt một khoảng đời cơ cực.
Tôi ngậm
ngùi:
- Ừ, lần
mô về ta cũng bận đủ thứ chuyện, bạn bè thì đông, chia cho mỗi đứa một
chút. Phải chi có nhiều thời gian hơn, hai đứa mình đi chơi xa một
chuyến hỉ.
Hòa nói
bâng quơ:
- Hè năm
ngoái lên Đà Lạt chơi, ta có ghé thắp nhang cho ông Dũng, mới đó mà 3
năm rồi mi.
Ba năm
rồi, tôi được tin Dũng mất qua một email của Hòa. Chỉ mấy dòng ngắn ngủi
báo tin: Dũng qua đời rồi, bị té ở cầu thang khi vừa đi đám cưới một
người bạn về. Dũng chết bất ngờ quá khi mới ở độ tuổi mà công danh sự
nghiệp đang lên, gia đình đang vui vẻ. Tôi buồn mất mấy ngày, cảm giác
như mình đánh mất một cái gì rất thân quen đã có mặt trong đời sống của
mình để mỗi khi nhớ về một quãng đời thì hình ảnh đó lại hiện ra rất gần
gũi. Đó là Dũng, là Thái Hòa, là Nguyễn… và những ngày xưa.
Ngày xưa
đó… sau một mùa hè làm quen với lao động, họp hành, thi đua, mít-tin và
những đổi thay, những khó khăn của một đất nước vừa im tiếng súng, đang
chuyển mình sau cuộc chiến triền miên. Đầu năm học mới, tôi bước chân
vào ngưỡng cửa lớp mười một. Trường Nữ bị giải tán, tôi được xếp vào học
chung lớp với Thái Hòa tại ngôi trường trung học lớn nhất Đà Nẵng. Vất
vả nhiều lần vì nạn “lý lịch”, tôi biết thân phận mình nên học hành rất
nghiêm chỉnh. Tôi chơi thân với Hòa trong một trường hợp khá buồn cười.
Tiết mục
sinh hoạt văn nghệ và đọc báo đầu giờ mỗi buổi sáng của lớp, với mục
đích giải trí và để cho học sinh làm quen với thời sự đang diễn biến mỗi
ngày. Có khi là để tập hát những bài hát ngợi ca chế độ, thần tượng các
anh hùng đã bỏ mình vì nước qua các cuộc chiến tranh. Học sinh thời đó
ai cũng phải có một cuốn sổ nhỏ để hàng ngày ghi chép những sinh hoạt về
“Văn, Thể, Mỹ”.
Có lần,
tôi từ bàn đầu quay xuống bàn sau mượn cuốn sổ của Hòa để chép lại bản
nhạc “Cô gái vót chông”, tôi bỗng thích thú vì trong cuốn sổ đó có chép
rất nhiều nhạc của những nhạc sĩ tôi thích. Bài “Còn chút gì để nhớ” của
Phạm Duy, “Paris có gì lạ không em” của Ngô Thuỵ Miên, “Hạ Trắng” của
Trịnh công Sơn… ngoài ra còn vô số những đoạn thơ Tuổi Ngọc được chép
phía sau cuốn sổ. Đối với những cô bé tuổi mười sáu, mười bảy như chúng
tôi thuở ấy, văn thơ lãng mạn trước 1975 càng bị cấm thì càng hấp dẫn.
Tôi len lén chép vào cuốn sổ của Thái Hòa một đoạn thơ:
Chẳng lẽ
em cứ ngậm ngùi mãi
Đường ta
đi dấu cũ không còn
Em nói
với tôi điều gì cũng được
Cay đắng
em thì xót xa tôi
Chẳng lẽ
em mãi im như tượng đá
Đâu phải
buổi đầu ngại mắt sâu
Em mất
tôi, còn có nỗi buồn
Tôi mất
em, đời sống ai quen
Em có
cần tôi để ru đời sống?
Sao em
không hỏi lại lòng mình
Tiếc gì
tôi thì em cứ nói
Khóc làm
chi, khổ cũng quen rồi!
Thái Hòa
chịu chơi dòm tôi cười hì… hì… thế là hai đứa quen, và thân nhau hơn.
Dường như giờ học nào hai đứa cũng có bút đàm, trong cuốn sổ tay nháp
của tôi giữ đến bây giờ vẫn còn. Đó là kỷ niệm của một thời dưới mái
trường Phan Châu Trinh mà lần nào đọc lại tôi cũng cười một mình.
Hòa là
cô bạn rất gần gũi với tôi trong những năm cuối của bậc trung học, cho
đến những ngày tôi lao đao cho mối duyên tình trắc trở. Lúc nào Thái Hòa
cũng bên cạnh tôi như một chiếc bóng, góp ý cho tôi, phân tích phải
trái, sẵn sàng vì tôi mà làm mọi việc. Tôi và Hòa hợp nhau nhiều mặt,
hai đứa thương nhau còn hơn chị em ruột, luôn che chở cho nhau cái thời
trốn mẹ đi chơi với người yêu, sớt chia nhau những chén mì sợi lót lòng
trong ngày hè cặm cụi học thi. Và nhất là cả hai đều hay mơ mộng, hay
“treo ngược tâm hồn lên cành cây”. Hai đứa đều có sở thích chép thơ,
chép nhạc trữ tình vào một cuốn sổ nhỏ và chuyền nhau xem, như để thêu
dệt cho thời con gái vốn không được nên thơ bởi nhiều ngăn cấm của sinh
hoạt xã hội thời bấy giờ.
Ngày đó…
Thái Hòa yêu Nguyễn, một trong những cái đuôi đi kè kè theo cô nàng mỗi
buổi tan trường, mối tình thời học trò kéo dài từ thuở trung học cho đến
khi cả hai lên Đại Học. Tình yêu của Hòa và Nguyễn trải dài qua những
cánh thư, mỗi năm hai đứa gặp nhau vào dịp Tết Nguyên Đán và một tháng
hè. Đó là một chuyện tình đẹp như những câu chuyện tình của Từ Kế Tường,
truyện Hoa Tím hay Tuổi Ngọc ngày xưa. Nguyễn học đại học ở Sài Gòn. Anh
chàng có dáng dấp thư sinh với đôi kiếng cận hiện đang là mốt trong giới
sinh viên thời đó. Nguyễn vui tính nhưng không kém phần sâu sắc, vậy mà
không hiểu sao nhỏ Thái Hòa cứ than “Nguyễn… con nít quá, chuyện gì cũng
đem ra đùa giởn được, với Nguyễn không có chuyện gì là người lớn cả”.
Hòa vào
Đại học Sư phạm Huế trong khi tôi lây lất chờ kết quả của các kỳ thi
Trung cấp. Cuối cùng, tôi bị cắt hộ khẩu ở Đà Nẵng vì đã không tham gia
nghĩa vụ lao động cho công trình xây dựng đập nước Phú Ninh. Tôi vào Sài
Gòn chờ ngày đi vượt biên, Nguyễn và tôi thân nhau từ dạo đó.
Một
trong những người bạn của Nguyễn là Dũng, dân Đà Nẵng, lúc đó cũng là
một sinh viên trường Tài chính, Dũng được Nguyễn giới thiệu quen biết
tôi như một đồng hương. Đoạn đường Sài Gòn - Đà Nẵng cách nhau khoảng
một ngàn cây số, phương tiện giao thông thuở đó thật khó khăn nên… tuy
gần mà xa. Kiếm được một đồng hương giữa đất Sài Gòn cũng khó như đi tìm
tô mì Quảng ở Liên xô! Dũng ốm và cao hơn Nguyễn, dung nhan thuộc loại
“đẹp xấu tùy người đối diện”, Dũng vui tính và hay đùa nghịch như
Nguyễn, chúng tôi đã có một khoảng thời gian bạn bè khá vui vẻ dù hai
anh bạn cũng là hai con nợ của tôi thời đó.
Để cầm
cự trong những tháng ngày chờ có chuyến đi, ngày ngày tôi theo bà thím
đi xuống Cần Thơ để mua gạo về bán lại ngay tại Xa Cảng Miền Tây. Vốn
không xuất thân là con nhà buôn bán nên tôi rất chậm chạp và yếu tim.
Thời đó, dưới chế độ thương nghiệp quốc doanh, những cá nhân đi mua gạo
từ một nơi khác về bán lại cũng bị xem là buôn lậu. Mà cũng phải, chỉ
cần trót lọt một giạ gạo qua khỏi các trạm thuế, từ Cần Thơ về đến Sài
Gòn là đã lời gấp đôi. Tôi sống lăn lóc trong giới buôn lậu khá lâu và
học được nhiều mánh khóe. Có khi chuyển sang mua tôm khô từ Cà Mau về.
Để qua mắt thuế vụ, tôi phải cải trang thành một bà bầu với cái bào thai
6, 7 tháng chất chứa toàn tôm khô hay mực khô, có khi là mỡ heo đã rán
thành nước… Khi làm ăn khấm khá, tôi cùng hai anh bạn đồng hương đi ăn
uống, xi nê… đứa nào cũng nhắc “Phải chi có nhỏ Hòa ở đây thì vui biết
mấy!”. Nguyễn vô tư hơn Dũng, tôi nghĩ có lẽ vì Nguyễn là con út, mà lại
là con trai duy nhất, Nguyễn chỉ có hai bà chị gái nên anh chàng được
cưng chìu, ít lo lắng. Trong khi đó, Dũng là anh trai lớn trong nhà, môt
gia đình căn bản, nề nếp ở trong quê. Dũng hay tìm hiểu về cách buôn bán
của tôi với vẻ chăm chú vốn ít có ở các chàng sinh viên.
Những
ngày chủ nhật không có lớp, thỉnh thoảng Dũng theo tôi đi Cần Thơ. Dũng
gợi ý cho tôi mang thuốc Tây từ Sài Gòn về bỏ mối và đem gạo từ dưới
lên. Hắn bảo đó là một dạng buôn bán hai chiều. Thỉnh thoảng sau khi
giao hàng xong, trong lúc chờ chuyến xe về lại Sài Gòn, Dũng rủ tôi dạo
chơi vòng vòng qua Bến Ninh Kiều, thăm cái thành phố hiền hòa và hữu
tình của vùng sông nước này. Cần thơ là thành phố trù phú và sạch sẽ
nhất miền Tây
Cần Thơ
gạo trắng nước trong
Ai đi
đến đó lòng không muốn về
Tôi và
Dũng đi bộ qua nhiều con đường đẹp ở đây. Hai đứa ghé vào chợ Cần Thơ ăn
hàng, nói đủ thứ chuyện để nhớ Đà Nẵng. Dũng rất lanh lẹ tháo vát, khác
hẳn nét thư sinh của Nguyễn. Dần dần, tôi nhận ra ở Dũng không có cái
miệt mài của một sinh viên tỉnh lẻ, Dũng luôn là người muốn thay đổi
hoàn cảnh và khác với tôi, Dũng rất bạo gan trước những thử thách.
Nhưng
Sài Gòn không phải là chốn để tôi tạm nương thân. Đó là năm 1979, sau
một cơn bệnh nan y tưởng như bỏ mạng lại đất miền
- Ông
Dũng muốn đưa mi về ra mắt bà già đó.
Tôi tỉnh
bơ nói đùa:
- Bà già
không đồng ý thì ta cũng bắt cóc con trai bả được, dễ ẹc.
Thật ra
tôi chỉ xem Dũng là một người bạn bình thường. Dũng nghịch lắm, tôi thì
vô tư. Có lần hai đứa đi băng qua đường giữa Sài Gòn xe cộ đông đúc, tôi
tự nhiên nắm tay Dũng vì sợ lạc, sợ xe đụng. Sang đến lề đường bên kia,
hắn la lên:
- Ê, rõ
ràng có bao nhiêu người làm chứng, Trang đã nắm tay Dũng trước đó nghe,
mai mốt nâng khăn sửa túi cho Dũng nữa là… xong!
Tôi la
ơi ới và… lần sau cũng cứ hồn nhiên tiếp tục. Thế là Dũng có cơ hội nhỏ
to với Thái Hòa “Con nhà Trang tự nguyện nắm tay Dũng rồi… hi… hi…”
Những dịp đi chơi chung bốn đứa, biết Thái Hòa và Nguyễn là cặp bồ bịch
từ lâu, hai đứa cũng muốn có thời gian tâm sự riêng nên tôi đành phải đi
chung với Dũng. Có phải lâu ngày bén hơi, hai đứa dần dần đi đâu cũng có
cặp mới lạ chứ!
Lần đầu
tiên trong dịp Tết năm đó chúng tôi theo Dũng về quê. Quê Dũng cách Đà
Nẵng không xa mấy. Bốn đứa đèo nhau trên hai chiếc xe đạp. Dũng chở tôi
mà than thở:
- Ui
cha, đạp xe lên dốc không muốn nổi, chở Trang mệt thiệt nghe!
Tôi đấm
vào lưng hắn:
- Noi
gương Nguyễn kìa, ông Nguyễn đèo nhỏ Hòa đi vù vù có than thở chi mô?
Hắn rề
rề:
- Tên
Nguyễn không mệt cũng phải!
Tôi chưa
hiểu ý:
- Hắn
cũng như ông, nhỏ Hòa cũng bằng Trang, người ta đèo nhau vui vẻ, ông cứ
than hoài!
- Phải
chi Trang cũng như nhỏ Hòa thì Dũng đèo đi hoài, không thấy mệt đâu.
- Ủa, có
chi khác mô?
Hắn lắc
đầu:
- Trang
không biết noi gương Thái Hòa làm sao biểu Dũng noi gương Nguyễn được.
- Ông
ni, rắc rối… muốn chi thì nói!
Hắn tỉnh
bơ:
- Hà…
hà… muốn… Trang ôm eo Dũng như Hòa ôm eo Nguyễn kìa.
Tôi la
làng và đấm vào lưng hắn:
- Còn
lâu á.
Hắn vẫn
lì lợm:
- Nói
thiệt nghe, chở Trang ngồi đàng sau giống như chở… cục đá quá, không có
cảm giác chi hết, có ôm eo thì lỡ xe lạng lách, Trang rớt cái bịch xuống
Dũng mới biết mà ngừng lại đỡ Trang lên đi tiếp chớ.
Tôi mắc
cở im lặng. Hắn thỉnh thoảng dòm lui:
- Nè cô
bé, không ôm eo thì lên làm bác tài chở Dũng nghe, bảo đảm Dũng sẽ ôm eo
Trang không cần năn nỉ.
Tôi
chẳng biết Dũng tán tôi hay hắn đang đùa.
Thanh
Quýt khá yên bình, nhà Dũng nằm ngay trên quốc lộ 1, với lối đi nhỏ giữa
hai khoảng ruộng. Ngôi nhà ngói nhỏ, có hàng cau phía trước y như hình
ảnh của một mái nhà trong tranh vẽ đồng quê Việt
- Ủa Tết
mà bác cũng làm ruộng, không nghĩ sao Bác?
Bà già
phán một câu:
- Hừ,
ngày mô có ăn thì phải có làm.
Tôi lạnh
ngắt kéo Dũng đi chỗ khác chơi, gặp Thái Hòa và Nguyễn tôi đùa:
- Làm
dâu bà già Dũng chắc phải về quê cuốc đất, mót khoai, không biết ta chịu
nổi không đây.
Dũng
tỉnh bơ:
- Dũng
mà cưới Trang thì cho Trang ở nhà nuôi con, khỏi làm gì hết, yên chí!
- Không
biết có được yên thân nuôi cháu nội cho bà già ông không?
Hắn tấn
tới:
- Có
Dũng mà, Trang lo gì cho mệt.
Chúng
tôi cứ đùa như thế rất vô tư chẳng biết Dũng có nghĩ gì không.
Một lần
Dũng rủ tôi đi ăn chè, tôi chuẩn bị xong xuôi thì phải méo xẹo cái mặt
vì Dũng đến chở tôi bằng cái xe đạp dàn ngang… không có yên sau. Tôi
nuốt hận leo lên ngồi ở dàn xe, trong lòng Dũng. Hắn ngang nhiên chở tôi
đi khắp phố phường Đà Nẵng và còn cười hà… hà…
- Chuyến
này… đố ai mà dám cua Trang nữa!
Tôi đỏ
mặt, hắn tiếp:
- Mà lỡ
Trang đang có ai đó, đi ngoài đường gặp hoàn cảnh này… chắc là… chia tay
luôn, phải không cô bé?
Tôi
không nhịn được xoay mặt nhìn lên định đấm cho hắn một cái, tôi khựng
người lại… và la lên:
- Ê,
Dũng có cái nốt ruồi lệ kìa!
Ngay
dưới mí mắt của Dũng có một hột nốt ruồi bé xíu, như một giọt lệ.
Hắn im
lặng, tôi liền tiếp:
- Đùng
có ghẹo người ta, thế nào sau này Dũng cũng khổ vì tình cho mà xem.
- Ai mà
dám làm Dũng buồn, ngoại trừ Trang.
Câu nói
của Dũng như rơi vào một khoảng không vì tôi chợt nhận ra có chút gì đó
không bình thường trong cái vẻ nghịch ngợm hàng ngày của Dũng.
Mấy
tháng sau, nhà nước có một đợt đổi tiền, là sinh viên của trường Tài
Chính nên Nguyễn và Dũng đều có công tác trong đợt này, không biết làm
ăn ra sao cuối cùng Dũng gặp phải rắc rối với một bà chủ quán cà phê gần
trường. Bản tính nóng nảy của thanh niên khiến Dũng chẳng biết nhường
nhịn, sự việc đổ bể, nhà trường cuối cùng giải quyết gọn nhẹ bằng cách
đuổi học Dũng.
Rời khỏi
mái trường với nhiều ấm ức, Dũng lăn xả vào những chuyến đi buôn đường
dài. Thuở đó thương trường không dễ chen chân vào, buôn bán đường xa bất
cứ một món hàng gì cũng dễ dàng bị tịch thâu và ghép vào dạng buôn bán
trái phép. Doanh nghiệp quốc doanh làm chủ mà hàng hóa gì cũng khan
hiếm, có khi có tiền mà chẳng có hàng để mua. Thỉnh thoảng tôi gặp Dũng
ở Đà Nẵng, cu cậu dúi cho tôi mấy cái “Giấy đi đường khống chỉ“, tức là
loại giấy đã có đóng dấu nhưng chưa có chữ ký của thủ trưởng cơ quan.
Với tờ giấy này tôi có thể xếp hàng mua vé tàu, vé xe theo giá chính
thức. Lúc đó tôi chẳng thèm thắc mắc từ đâu Dũng có loại giấy tờ phi
pháp này. Tôi đền ơn Dũng bằng mấy chầu chè rất vui vẻ. Có khi tôi còn
biếu loại giấy đi đường này cho một bà chị quen thân trong giới “buôn
bán trái phép” của tôi. Cho đến một hôm, cả nhà tôi đang ăn tối thì có
một chiếc xe “Ba càng”, loại xe của Sở Công An hay xử dụng để đi bắt
người phạm tội đến ngừng trước nhà tôi. Ba bốn nhân viên mặc đồng phục
công an vào nhà đọc lệnh xét nhà. Họ cho biết là Dũng đã bị bắt khi xử
dụng tờ giấy đi đường có đóng dấu của trường Tài Chính, con dấu này
chính xác là bị mất cắp. Bà chị quen với tôi cũng bị bắt, không biết
Dũng và chị ấy đã khai như thế nào mà dính luôn đến tôi. Cả nhà tôi xanh
mặt khi công an tìm trong tủ sách của tôi có một giấy đi đường chưa xử
dụng có con dấu của Trường Đại học Tài chính.
Tôi có
lệnh bị tạm giam, nhưng trước hết là bị giải xuống công an thành phố.
Ngồi trên chiếc xe ba càng đang nổ máy bành… bành… tôi còn thấy Má tôi
hớt hải chạy theo, cố đưa cho tôi tấm mền bằng vải dù. Viễn ảnh có thêm
một thành viên trong nhà bị vào cải tạo khiến Má tôi khóc không ra nước
mắt nữa.
Tôi
không bị đưa thẳng lên trại giam mà phải xuống phòng Công An thành phố
để làm tờ tự khai. Từ đầu tới cuối, tôi cố tình giấu diếm cho Dũng, chỉ
khai là bạn của Dũng và hắn cho tôi tờ giấy này chỉ có một lần, chưa
được xử dụng. Viết bao nhiêu tờ tự khai tôi cũng không nói gì thêm, cho
đến khi người ta đưa Dũng ra để đối chất. Tôi còn nhớ hình ảnh Dũng xuất
hiện với hai tay bị còng ra phía sau, hai ngưòi công an kẹp hai bên nách
lôi Dũng đến trước mặt tôi. Dũng ốm và tiều tụy, ánh đèn vàng yếu ớt của
phòng Công An thành phố Đà Nẵng không đủ soi sáng khuôn mặt Dũng, nhưng
tôi vẫn nhận ra ánh mắt Dũng nhìn tôi, trong một khoảnh khắc tôi thấy
nao lòng, đó là ánh mắt của một con thú bị thương.
Một nhân
viên điều tra hỏi Dũng:
- Phải
người này không?
Dũng gật
đầu.
Người
nhân viên hỏi tiếp:
- Anh
cung cấp loại giấy đó cho cô ta bao nhiêu lần?
Tôi nín
thở chờ câu trả lời. May quá, Dũng nói y như những gì tôi đã khai:
- Tôi
cho cô này chỉ 1 tờ thôi.
- Quan
hệ giữa anh và cô ta thế nào?
Dũng trả
lời rất nhỏ:
- Cô ấy
là… người yêu của tôi.
Tôi sửng
sốt trong một giây. Cuộc hỏi cung vẫn tiếp tục:
- Anh
khai ra, bây giờ con dấu đó ở đâu?
Dũng:
- Tôi
không biết.
Một cú
đấm thẳng vào ngực Dũng, trong chớp nhoáng, tôi nghe một tiếng... hự!
Dũng cuối gập người xuống rồi lại thẳng lên nhìn tôi. Trái tim tôi như
có một bàn tay nào bóp nghiến, đau thắt, tôi không muốn khóc nhưng nước
mắt cứ ứa ra ràn rụa. Dũng lại nhìn tôi. Cái nhìn rất hiền, như muốn nói
với tôi là: Dũng không có sao đâu, cứ yên tâm đi cô bé! Tôi vẫn ngồi yên
bất lực trước nỗi đớn đau mà Dũng đang gánh lấy một mình. Người ta đưa
Dũng vào tạm giam để tiếp tục điều tra, trước khi cái dáng xiêu vẹo của
Dũng với hai cánh tay bị trói ra phía sau mất hút sau cánh cửa của Phòng
Công an thành phố; Dũng đã quay lại nhìn tôi một lần. Có lẽ suốt đời,
tôi không bao giờ quên tia mắt Dũng đã nhìn tôi một đêm mùa hè năm đó.
Sau đó
tôi tiếp tục nhận giấy trình diện của công an Thành phố, phải lui tới
trại giam Kho Đạn Đà Nẵng nhiều lần để các nhân viên điều tra tiếp tục
khai thác hầu có đủ bằng cớ buộc tội Dũng. Tôi thông minh dựa theo lời
khai của Dũng để nhẹ tội cho mình và không có hại cho Dũng. Tôi thoát,
không bị ngồi đếm lịch ngày nào khi đã nhận là người yêu của Dũng. Sau
đó, nghe đâu Dũng khôn khéo đổ tội cho một người bạn tên Hùng, tên này
đã vượt biên cách ngày mọi chuyện đổ bể chừng 1 tuần. Thế là mất hết bao
đầu mối, Dũng chỉ bị kết tôi xử dụng giấy tờ giả mạo, đương nhiên là là
bị giam, hình như chừng 6 tháng. Mẹ Dũng từ trong quê ra đi thăm nuôi
ông con, nghe nói có dính dáng đến tôi, bà có vẻ không vui. Tôi viết thư
kể cho Thái Hòa và Nguyễn biết mọi việc, Nguyễn lúc nào cũng khẳng định
Dũng là người bạn tốt; Hòa thì hết hồn khi nghe tin tôi bị rắc rối với
công an qua những dòng thư chia sẻ, nó thương tôi và trách Dũng đã đem
đến cho tôi quá nhiều phiền phức. Tháng sau, Thái Hòa phải đi lao động
với trường tận Quảng Bình; Nguyễn nghe tin ông bạn đã nằm khám nên cũng
buồn, không về Đà Nẵng. Mùa hè năm đó tôi thật cô đơn.
Một buổi
trưa, có tiếng nhỏ em gái:
- Chị
ơi, anh Dũng kiếm.
Dũng
xuất hiện trước nhà tôi, lạ lẫm với mái tóc cắt cụt ngủn, trông rất
quái, đúng là hình ảnh của một người vừa mới ra tù, tôi tròn mắt:
- Ra bao
giờ vậy?
- Ra năm
bính thân, hai mươi hai năm rồi.
Trời ạ,
hắn vẫn còn cà rởn được, tôi nghĩ thầm.
Dũng
tiếp:
- Giỡn
cho vui thôi, Dũng gỡ chưa xong nửa cuốn lịch thì ra, việc đầu tiên là
đạp xe đến nhà Trang, xem cô bé có sao không nè.
Tôi hơi
ngạc nhiên trước sự bình thản của Dũng:
- Bây
giờ… tính làm ăn gì không?
Hắn cười
cười, vẻ tinh nghịch lấp lánh trong mắt:
- Thì…
Trang lo mà nuôi Dũng đi chớ!
Tôi hết
nhịn nổi:
- Ê,
không dỡn nghe!
- Nói
thiệt mà, trước công an Dũng đã nhận Trang là người yêu rồi nên cô bé
mới được yên, bây giờ cô phải trả công chứ.
Tôi im
lặng. Dũng gạ:
- Chúc
mừng Dũng tự do, đi ăn chè không?
Đang ở
thế bí, tôi ừ đại.
Dũng chở
tôi xuống một quán chè, ăn chè xong hắn nhường cho tôi trả tiền bằng
cách rất khôn khéo:
- Trang
bao Dũng chứ, chẳng lẽ để tên bạn thất nghiệp này trả tiền thì… kỳ quá!
Chở tôi
đi vòng vòng Dũng chẳng hé môi về những ngày trong trại giam, tôi thắc
mắc, Dũng chỉ cười:
- Trang
muốn biết để làm gì, cô bé chỉ cần biết bây giờ Dũng đèo Trang đi dạo bờ
sông Hàn mát mẻ, đếm thử bao nhiêu cặp tình nhân đang hò hẹn tâm tình ở
ghế đá. Ờ… mà… mình cũng là một cặp, phải không Trang?
Tôi im
lặng cho sự quỷ quái của Dũng, hắn tiếp:
- Im
lặng là đồng ý nghe cô bé, không cần trả công Dũng bằng 2 ly chè đâu,
Dũng sẵn sàng chở Trang đi hết cuộc đời này luôn.
Dũng là
vậy đó, lúc nào cũng nửa đùa nửa thật. Mặc dù vứa mới dính dáng đến luật
pháp, Dũng vẫn rất bình thản, lạc quan. Tình cảm của Dũng dành cho tôi
có phần đặc biệt hơn tình bạn một chút, khi gần khi xa Dũng đã biểu lộ
điều đó, trong khi tôi luôn trong trạng thái e dè, cố tình không hiểu.
Hay nói đúng ra là tôi mơ hồ cảm thấy không yên lòng trong mối quan hệ
này dù tôi biết Dũng đã dành cho tôi nhiều ưu ái.
Mấy
tháng sau, Thái Hòa từ Huế về báo cho tôi biết tin Dũng đã vào Quy Nhơn
nhập học trường Đại học Sư Phạm. Hai đứa ngạc nhiên vô cùng, cứ xì xào
bàn tán; vừa mừng cho cơ hội may mắn đến với Dũng, khâm phục cho sự lanh
lẹ biết chớp lấy thời cơ của hắn. Rồi cũng không yên thân được bao lâu,
tôi lại gặp Dũng, chưa kịp hỏi còn bao lâu Dũng sẽ trở thành thầy giáo,
đã nghe hắn hí hửng “Dũng xin được việc làm ở Công ty Cung Ứng Tàu Biển,
“nghề ráo” ngó bộ không hợp, Dũng đi kiếm nghề ướt át một chút”. Tôi và
Thái Hòa mơ hồ cảm thấy bất an cho người bạn này. Hai đứa không biết
được Dũng bằng cách nào mà có thể từ trại giam ra có mấy tháng đã vào
Đại Học, rồi lại rời đại học một lần nữa lại có ngay một việc làm ngon
lành khác. Ai cũng công nhận Dũng lanh và đầy mưu trí, một cái vốn hiếm
có để người ta có thể đứng vững trong xã hội, bất cứ giai đoạn nào.
Tôi ít
liên lạc được với Dũng từ dạo đó, những gì Dũng nói cũng không nằm lại
trong tâm tư tôi. Quả thật, tôi sợ cho sự lanh lẹ đầy tính toán của
Dũng. Có thể chính điều đó đã đẩy tôi và Dũng ra hai phía của cuộc sống.
Tôi mơ hồ cảm nhận Dũng đã lao vào cuộc đời bằng chính đôi tay tự tin
của Dũng, chẳng phải bằng những kiến thức ở học đường, với cái mác của
lý lịch có một ông bố chết trận trong bộ quân phục phía bên kia. Trang
vở đời Dũng đã không có tôi cùng góp mặt. Tôi thờ ơ với những tình cảm
của Dũng dành cho mình, có lần thư cho tôi, Nguyễn cũng trách nhẹ “Cô bé
vô tình quá, đã làm cho ông bạn của Nguyễn buồn tình đời, muốn xuống tóc
đi tu đó!”
Tôi tiếp
tục cuộc sống đơn điệu của mình với một gian hàng nhỏ trong khu chợ Tam
Giác Đà Nẵng, một người bạn trai thuở sinh hoạt trong đoàn thể Thanh
niên địa phương và một vài ước mơ chưa kịp hình thành. Nguyễn vẫn tiếp
tục năm cuối Đại học. Mùa xuân năm đó, ở Sài Gòn, Nguyễn thành hôn, cô
dâu không phải là Thái Hòa. Chấm dứt một chuyện tình, nhẹ nhàng và đơn
giản như những dấu chấm lửng trong một bài hát tình buồn.
Nguyễn
đã xem “… lời hẹn thề… là những cơn mưa…” khiến nhỏ bạn tôi đảo điên một
thời. Dòng nước mắt tức tưởi không vơi được nỗi đau bất ngờ trong những
ngày chuẩn bị thi tốt nghiệp. Vậy mà Hòa cũng cam đảm vượt qua mọi khổ
đau để tốt nghiệp đại học với số điểm khá cao. Thái Hòa ra trường, được
nhận nhiệm sở ở một vùng ngoại ô Đà Nẵng. Tình thân giữa tôi và nhỏ vẫn
cứ tăng dần theo thời gian, với những khó khăn của thời thế kéo theo
những khốn đốn của đời tôi.
Mùa hè
trôi qua, mùa đông lại đến. Đã mười mấy năm đất nước ngưng chiến tranh.
Dòng sông Bến Hải không còn chia cách hai miền đất nước nhưng đó không
phải là sự hàn gắn cho những mộng mơ, nó đã lặng lẽ chứng kiến bao nhiêu
sự cắt chia trong ý thức hệ, trong quan điểm chính trị và trong cả tình
cảm con người. Phải, cuộc đời như một giấc chiêm bao, với tôi thì mười
mấy năm sau đó như một cơn ác mộng. Trôi nổi qua nhiều éo le nghiệt ngã,
tôi phải bôn ba nhiều nghề để kiếm sống. Thành phố Đà Nẵng nhỏ xíu vậy
mà tôi không có dịp để gặp Dũng, ngoại trừ một lần, khi Dũng vào Bệnh
Viện thăm người quen bị ốm, và tôi đang buôn bán ở Căng Tin Bệnh Viện.
Dũng mập mạp hơn, ra vẻ là một người đàn ông thành đạt. Tôi ngại ngùng
không dám hỏi thăm. Suốt ngày hôm đó tôi cứ tự hỏi, không biết Dũng có
còn nhớ người bạn đã từng khốn khổ thuở… vào tù ra khám với Dũng hay
chăng?
Hết giờ
làm việc, trời xui đất khiến, tôi gặp Dũng cũng đang lấy xe phía sau nhà
xe, dù tôi đã cố tình ngó lơ, Dũng cũng nhìn ra tôi sau một giây sửng
sốt:
- Trang…
làm ở đây hả?
Tôi bối
rối, mặc cảm cho hoàn cảnh hiện tại của mình, nhớ lại chuyện xưa, tôi
mất bình tỉnh như một cô bé mười mấy tuổi, ấm ứ không lên tiếng được,
mãi cho đến khi tôi nhận ra đôi bàn tay mình đã nằm gọn trong tay Dũng
ấm áp. Trời mùa hè mà sao tôi lại run lẩy bẩy. Dũng lại lên tiếng:
- Trang
sao vậy?
Tôi vẫn
không thể nào ngước mắt lên nhìn Dũng, hai dòng nước mắt cứ thi nhau rơi
xuống đôi bàn tay vẫn đang bị Dũng nắm chặt.
Tôi cố
gắng gỡ tay mình ra khỏi tay Dũng ra trong im lặng. Hình như hiểu được
những suy nghĩ của tôi, Dũng nhẹ nhàng:
- Không
có ai dám nói mình đúng hay sai trước những biến cố của cuộc đời, Dũng…
nghe Hòa và Nguyễn kể về hoàn cảnh của Trang rồi… Ngày đó, Dũng… cứ cầu
mong cho mình kiếm được chút vững vàng trong cuộc sống thì sẽ nói với
Trang là…
Hắn ngần
ngừ rồi tiếp:
… Vậy mà
sau nghe Hòa nói Trang đã…
Tôi lắc
đầu cố cười trong nước mắt:
- Đâu có
sao, Trang bằng lòng với những chọn lựa của mình mà.
Dũng vẫn
nhẹ nhàng:
- Trang
làm ở đây bao lâu rồi, Dũng quen biết nhiều, có thể giúp gì cho Trang
được không?
Tôi ngại
ngùng từ chối. Với nước mắt còn đọng trên bờ mi, tôi chia tay Dũng:
- Thôi,
Trang về lo cho con bé ở nhà nghe.
Dũng cố
níu:
- Trang
đừng ngại, Dũng biết… Trang bây giờ nuôi con không phải bằng sữa mà…
bằng cả nước mắt...
Dũng nói
chưa hết câu tôi đã thấy đau lòng, không biết vì tủi thân hay vì bất ngờ
trước sự bao dung của Dũng. Cảm giác có lỗi trước tình cảm của Dũng dành
cho mình ngày xưa, tôi vội vàng đạp xe đi như chạy trốn.
Mấy năm
sau, trong khi tôi chạy đôn chạy đáo để làm hồ sơ xuất cảnh, buộc lòng
phải gặp mặt những vị quan chức của Nhà Đất, của sở Tài Chính để ký giấy
tờ, tôi được biết Dũng đã có được một địa vị và uy tín vững vàng trong
giới làm ăn. Những người có thẩm quyền hoàn tất giấy tờ cho tôi cũng có
phần nể mặt khi biết tôi là bạn Dũng. Nghe đâu anh chàng đã lập gia đình
với con gái một ông quan to. Con đường hoạn lộ của Dũng rất thênh thang,
đúng như những gì tôi đã suy nghĩ về Dũng.
Tôi rời
Việt Nam, gởi những yêu thương một thời lại Đà Nẵng, nơi ghi dấu nhiều
kỷ niệm trong đời. Những ước mơ thời mới lớn đã chết dần theo năm tháng,
theo sự nghiệt ngã của số phận đời tôi. Thái Hòa sau đó đã lập gia đình
với một anh, là bạn của ông anh tôi. Mối tơ duyên này đã đem lại cho nhỏ
bạn tôi một cuộc sống ổn định về nhiều mặt mà tôi vẫn cho rằng nó xứng
đáng được thừa hưởng. Một mái nhà êm ấm, một người chồng có kiến thức,
biết tính toán làm ăn, yêu vợ thương con, biết cư xử làm đẹp lòng mọi
người. Đó là một cuộc sống mà bao người phụ nữ mơ ước. Tôi về Việt Nam
thăm Thái Hòa và lần nào cũng vui vẻ ăn cơm chung với gia đình nó. Trong
thế giới nhỏ êm đềm này của Hòa, tôi biết chắc không có chỗ cho sự hiện
diện một mối tình tan vỡ ngày trước, nếu có… thì đó chỉ là sự tiếc nuối
cho khoảng thời gian dài vô lý có sự xuất hiện của một người mang tên
Nguyễn. Thái Hòa đã khẳng định với tôi như thế.
Còn tôi
thì sao, cảm tình dành cho Dũng một sớm một chiều tôi ngỡ như chỉ là một
cơn gió rất nhẹ, thoáng qua cuộc đời. Một tình cảm không chấp nhận, cũng
chẳng chối từ. Chưa bắt đầu nên làm sao có kết thúc. Đôi lần tôi cùng
Thái Hòa nhắc đến Dũng với những mẫu chuyện vớ vẩn ngày xưa. Hòa cho tôi
biết một vài chuyện không vui trong đời sống hôn nhân của Dũng. Là người
biết nắm bắt lấy cơ hội, Dũng thành công trên thương trường bao nhiêu
thì lận đận trong hôn nhân bấy nhiêu. Tuy vậy, Dũng không phải là người
dễ dàng đầu hàng nghịch cảnh. Mái ấm của Dũng đôi lần tưởng như gãy đổ
nhưng Dũng cũng cố níu kéo lại bằng đủ cách, từ tình cảm cho đến khi
phải xài đến thủ đoạn. Đôi lần Thái Hòa gật gù bảo tôi:
- Cũng
may, hai đứa mình chưa cưới ông Dũng. Làm dâu bà già Dũng cũng tiêu mà
làm vợ ổng cũng khổ.
Tự nhiên
tôi lại nghĩ đến cái nốt ruồi lệ dưới mí mắt của Dũng, rồi lại nghĩ đến
đoạn đường đời quanh co nhiều ngã rẽ Dũng đã đi qua sau ngày rời mái
trường, đường đó không có tôi. Nhớ đến cuộc tao ngộ đẩm nước mắt hôm gặp
Dũng ở nhà xe bệnh viện năm nào. Có một thi sĩ đã nói hộ tôi:
Khi
người không yêu ta
Buồn đã
đành một nhẻ
Khi ta
không yêu người
Sao cũng
buồn đến thế
Như đánh
mất điều gì
Lòng
bâng khuâng khó tả
Như thể
mắc nợ ai
Món nợ
không thể trả
Ngỡ
chẳng có gì đâu
Mà sao
thành bối rối
Tất cả
chỉ một lời
Nói hay
là không nói…
(Thơ Anh
Ngọc)
Quả
thật, Dũng chẳng nói ra mãi cho đến ngày nhắm mắt lìa trần. Giờ đây Dũng
một mình nằm lại nơi nghĩa trang vùng núi đồi xứ lạnh, lắng nghe tiếng
thông reo rì rào mỗi buổi sáng, bỏ lại những muộn phiền của một thời bôn
ba, những mánh khoé lọc lừa của đời sống để vươn đến thành công từ hai
bàn tay trắng. Gia tài của Dũng nghe đâu lên đến hơn mười tỷ bạc, hai
đứa con đã đi du học ở nước ngoài nhưng… Dũng đã buông tay, về với hư
không. Bỏ lại bao nhiêu tranh chấp ồn ào, phiền toái mà chắc ở một cõi
xa xăm kia tôi cầu mong cho Dũng không hề biết, mong cho Dũng sớm siêu
thoát. Chuyện ngày xưa, tôi cứ tưởng rằng mình đã quên, vậy mà đêm nay
và nhiều đêm khác, mỗi khi nghĩ về những cảm tình đã đến và ra đi trong
đời mình, nghĩ đến Dũng là tôi cứ trăn trở. Khó ngủ. Phải chi tôi quên
được, phải chi tôi ứa ra được những giọt nước mắt muộn phiền…
Thì ra,
có những khi người ta buồn, mà không thể khóc được. |
|||
Nguyễn Diệu Anh Trinh
Viết tặng TH, Nguyễn và… cho linh hồn Dũng |