MẢNH GIẤY GIỮA TRỜI Nguyễn Diệu Anh Trinh |
|
Trang Web NTH Hồng Đức Hân hạnh giới thiệu
bài viết của ANH TRINH đã đoạt giải dự thi " Muôn Nẻo Đường Đời" do tuần San Người Việt và Sài gòn Nhỏ tổ chức |
|
|
|
Chiều Tháng Bảy năm ấy, một buổi chiều mưa rả rích; trong thơ văn gọi là
mưa ngâu với những hình ảnh rất lãng mạn… Bầu trời giăng mây tím, có đàn
quạ bắc cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau… Đó là trong truyền
thuyết.
Mùa mưa ngâu năm 1978 có cả những giọt nước mắt tức tưởi của mẹ con
chúng tôi, khi chiếc xe ô tô loại Jeep lùn và chiếc xe “ba càng” đỗ xịch
trước cổng nhà.
Ba tôi, hai tay bị trói ra phía sau, bộ áo quần bảo hộ lao động màu xanh
thẫm còn vương cát bụi công trường, nét mặt phờ phạc… từ ghế sau xe Jeep
nhảy xuống, bên cạnh là hai cán bộ công an áo vàng, cùng với tài xế cũng
đồng phục công an. Tất cả bước vào nhà. Họ đọc lệnh và lục soát mọi nơi
trong nhà, từ phòng ba má tôi đến phòng học của anh chị em tôi, nhà
bếp…, nói chung là mọi ngõ ngách. Để kiếm tài liệu!
Mẹ con chúng tôi ngơ ngác, không biết tài liệu gì? Kết quả, dù không có
gì để ghi vào biên bản, họ cũng đưa ba tôi ra xe với tội: “Tình nghi
tham gia đảng phái phản động chống phá chính quyền”.
Hình ảnh cuối cùng cả nhà được thấy là ba nói nhỏ, đúng hơn là xin phép
được ngồi xuống để đứa con gái út bốn tuổi đến gần, ôm ba một cái. Ba
xin được lột chiếc đồng hồ hiệu Titani dây vàng đang đeo trên tay để lại
nhà, dường như ông đã linh tính được một tương lai trăm bề khó khăn của
vợ con sau này.
Năm ấy ba tôi 49 tuổi. Với những bước chân vô hồn, ba tôi đi giữa hai
cán bộ công an ra xe. Trời đã tối, trăng Tháng Bảy le lói, như tương lai
mù mịt của đàn con tám đứa sau ngày ba bị bắt. |
|
Cũng như bao nhiêu gia đình có người thân bị bắt đi tù cải tạo không rõ
ngày về, gia đình tôi như rắn mất đầu. Má tôi chạy vạy, khóc lóc, van
xin khắp nơi. Tất cả đều vô vọng. Không ai biết ba tôi bị đưa đi đâu.
Những cái lắc đầu, những cái nhìn vô cảm không chút lương tâm. Chồng một
bà dì ruột thì lên giọng đạo đức: “Đảng sẽ có chế độ khoan hồng nếu chú
chịu hợp tác…”.
Trong khi đó, tất cả máy móc dùng trong nghề nghiệp mà ba tôi đem theo
khi lên công trường làm việc cũng bị niêm phong. Đó là những cái máy
trắc địa nhập cảng từ Pháp, rất quý giá, ba tôi dùng để ngắm tọa độ
trước khi thi công một đoạn đường hay cây cầu, cái đập nước. Cho đến
những lô củi ba tôi chặt trong rừng, chờ có dịp là chở về Đà Nẵng để gia
đình dùng cũng bị tịch thu, không có giấy tờ.
Sau nhiều tháng biệt tăm ba, má tôi hỏi thăm thì được biết là từ trại
giam Kho Đạn (nhà tù ở đường Đào Duy Từ, trung tâm thành phố Đà Nẵng),
tù nhân sẽ được đưa vào trại giam Hội An rồi mới chính thức đưa vào các
trại lớn khác rải rác khắp cả nước.
Không nhớ bằng cách nào má tôi biết là ba đang bị giam ở Hội An. Má liều
mạng đi Hội An. May quá, được gởi chút thực phẩm cho ba chứ nhà tù không
cho gặp mặt. Theo thông lệ, sau khi bị giam ở Hội An thì tùy theo tội
lỗi, người bị tù cải tạo sẽ bị chuyển đến một trong nhiều trại tù rải
rác từ Bắc vào Nam mà không hề thông báo cho gia đình biết. Có người khi
biết tin người thân thì chỉ thấy một nấm mồ nơi rừng núi hoang vu hoặc
may lắm có bạn đồng tù nhắn với gia đình báo giùm.
Tình cảnh gia đình tôi thời đó thật bế tắc. Tôi đang ở Sài Gòn, ở trọ
nhà một người bạn của ba để chờ đi vượt biển. Anh trai lớn của tôi
nguyên là học sinh Trường kỹ thuật Cao Thắng Đà Nẵng. Sau khi ba bị bắt,
anh vỡ mộng làm chàng sinh viên trường Bách Khoa Phú Thọ vì nạn lý lịch.
Anh tôi ôm ba lô đi làm công nhân cầu đường; chấp nhận đi khuân gạch đá,
cưa bom, vét cống khi tuổi đời vừa chạm hai mươi. Đứa em gái kế tôi,
tuổi xuân phơi phới như các bạn cùng lứa thì theo đoàn thanh niên đi đào
kênh ở Phú Ninh để giảm bớt miệng ăn ở nhà. Ở nơi đó cũng chẳng hơn gì;
những bữa ăn “một cục sắn gắn ba hột cơm”; tù túng trong các lán trại mà
suốt ngày phải chạy theo chỉ tiêu, năng suất và luôn miệng hát hò ngợi
ca sự sáng suốt của lãnh đạo.
Đàn em còn lại của tôi, đứa đi bán bánh mì, đứa bán cà rem, bán thuốc
lá, đi đổi nước (không phải bán nước), những đứa lớn hơn thì đạp xe thồ…
Má tôi thật sự bước vào con đường cùng. Buôn bán khó khăn và không có
vốn liếng. Ba má tôi vừa xây nhà xong thì biến cố 1975 ập đến.
Gia đình tôi lây lất sống nhờ… chợ Trời. Chúng tôi không buôn mà chỉ bán
những thứ trong nhà: Từ quạt máy, tủ lạnh, máy giặt đến ti vi, tủ bàn,
chén bát, rồi áo quần, xe cộ… Tất cả lần lượt ra đi. Những cánh cửa sổ,
cửa kính cũng không cánh mà bay. Gia đình tôi đương nhiên gia nhập vào
hội vô sản. Không còn gì cả ngoài ngôi nhà to đùng, trong đó có má tôi,
người phụ nữ mới trên bốn mươi, hai vai gánh đàn con tám đứa không tương
lai, chồng biền biệt lao tù không biết nơi nao!
Một ngày mùa hè, anh trai lớn của tôi từ công trường xây dựng cầu đường
ở Tam Kỳ, đón xe đò về Đà Nẵng, anh hớt hải tuyên bố: “Ba bị đưa lên
trại giam Tiên Lãnh”, (một trong hàng chục trại cải tạo, nằm trong vùng
núi thuộc huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam).
Má tôi ngơ ngác, anh Hai gỡ kính cận lau bụi rồi từ từ kể:
“Con đang ngồi đập đá ở công trường, có một thằng bé bán cà rem mặt mày
nhem nhuốc vì nắng và bụi đất đỏ, bước vào rụt rè hỏi:
– Dạ, đây có phải Đội Cầu số 1 không?
– Mi hỏi làm chi?
(Buồn cười cho kiểu nói của dân xứ Quảng; luôn luôn trả lời câu hỏi bằng
một câu hỏi khác)
– Dạ con lượm được tờ giấy ni, con đi kiếm chú Tuấn ở Đội Cầu 1 Tam Kỳ.
Ngay lúc đó anh Hai tôi bỏ cái búa xuống bước tới. Thằng bé tiếp:
– Dạ, con đọc ở đây nè chú: Ai lượm được giấy này nhờ đưa cho con trai
tôi là Nguyễn … Tuấn…, đang làm ở Đội Cầu 1 Tam Kỳ Quảng Nam, chú coi
đi!
|
|
Anh Hai tôi lật qua lật lại tờ giấy, thấy nét chữ bằng bút chì của Ba
tôi, mặt sau ông viết chỉ một dòng: “Ba đã bị đưa đi Trại 1 Tiên Lãnh.”
Ôi, thì ra ba tôi tuy ngồi trong xe bịt bùng nhưng cũng biết “nhắm tọa
độ” khi xe chạy ngang vùng đất Tam Kỳ. Không biết sao ông đã chuẩn bị
sẵn “tờ rơi” này và thả xuống ngay đoạn đường mà ông nghĩ may ra có
người lượm được sẽ chuyển dùm cho con trai ông đang làm công nhân ở đây.
Viết tới đây thì tôi cũng rùng mình vì sự nhiệm màu của niềm tin với ơn
trên. Không ai có thể tưởng tượng được. Trưa hè, một mảnh giấy nhỏ được
cột vào đoạn bút chì, thả xuống dọc đường; một cậu bé bán cà rem với sự
tử tế, có tâm Bồ Tát có tấm lòng… tất cả như một phép lạ đưa đến kết quả
như ý.
Mảnh giấy đã đến tay người nhận không những chính xác mà còn đúng lúc.
Càng khâm phục ba tôi, đã xuất sắc như một điệp viên chuyên nghiệp. Mọi
diễn biến như có sự sắp đặt từ bàn tay của Thượng Đế; điều mà chúng ta
gọi là kỳ tích.
Thế là gia đình tôi biết được người cha thân yêu của chúng tôi đang chịu
nạn ở đâu, và từ đó có những chuyến đi vượt núi rừng thăm ông trong suốt
mười năm ông bị giam cầm.
Sau này, khi ba đã được thả về, tôi thường tò mò hỏi lại “vụ thả giấy”
này, ba tôi trả lời rằng: “Ba cầu xin nên Trời Phật cho thôi. Thử hỏi
mảnh giấy bằng bàn tay thả bay trong nắng gió trên Quốc lộ 1, chỉ có
Trời Phật đưa đẩy thì mới gặp chú bé bán cà rem cũng biết chữ và có lòng
của một vị Bồ tát, chứ chẳng ai tài giỏi gì! Mình có cầu khẩn thì có
niềm tin, có hy vọng mới đạt được chứ buông xuôi thì sống sao nổi?”. |
|
Quan niệm sống không buông xuôi của ba tôi đã giúp ông vượt qua những
tháng ngày bị bỏ đói, bị biệt giam, hai chân bị cùm, tiêu tiểu tại chỗ,
không ánh sáng, không cử động… Một cách giết từ từ rất thâm độc của phe
thắng cuộc.
Những chuyến thăm nuôi được tiếp tục ròng rã hơn mười năm. Niềm tin và
những suy nghĩ tích cực giúp ba tôi vượt qua những gian lao thử thách
trong trại tù Tiên Lãnh – một trại tù khét tiếng của miền Trung Việt Nam
do chính quyền cộng sản lập ra.
***
Ba tôi rời trại tù một ngày giáp Tết. Từ một trung niên khỏe mạnh ông đã
trở thành cụ ông sáu mươi tuổi. Sau những ngày bệnh hoạn, ông được hồi
phục nhờ sự giúp đỡ của những người thân trước kia từng xem ba tôi là ân
nhân, thời ba còn huy hoàng. Ba tôi có công việc làm, kiếm được tiền và
dường như bắt đầu có tiếng tăm trở lại trong lĩnh vực xây dựng cầu đường
và nhà cửa. Nhiều chú thầu khoán đã giúp ba tôi có đủ tiền để làm hồ sơ
xuất cảnh theo diện H.O. do Chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ.
Tháng Bảy, ngày 12 năm 1994, ba tôi dẫn bốn người con và một cháu ngoại
giã từ người thân ở Sài Gòn, lên phi cơ sang Hong Kong; ghé đảo Guam để
máy bay tiếp nhiên liệu, rồi đặt chân đến Phi trường Los Angeles tối
ngày 13 Tháng Bảy. Chúng tôi được Tổ chức Di Cư Quốc Tế (IOM) đón tiếp,
đưa vào ngủ lại ở khách sạn. Đêm đó có sáu phần gà nướng (fried chicken)
được mang tận phòng cho bữa tối nhưng cả nhà không ai dám ăn vì sợ không
có tiền trả, mà cũng chưa quen với mùi bơ chiên.
|
|
*****
Hôm nay ngày 12 Tháng Bảy 2021, đúng hai mươi bảy năm ngày gia đình tôi
đến Hoa Kỳ. Những người con của ba, từ những đứa đi cùng ba cho đến ba
gia đình được ba bảo lãnh sau này, tất cả đều có cuộc sống ổn định;
người làm việc ở hãng xưởng thì được thăng tiến, đứa kinh doanh thì đều
là chủ nhân các tiệm nail, salon tóc, tiệm ăn…
Những đứa cháu nội ngoại ra đời trên quê hương thứ hai có bàn tay ba
chăm sóc, nay đều đã tốt nghiệp đại học, trung học; có cháu thành công
trên con đường kinh tế, có cháu vượt bao trở ngại để thành danh bằng chữ
nghĩa. Nói chung mọi thành công mà thế hệ con và cháu đang có được,
ngoài nỗ lực của bản thân còn phải nhớ đó là công đức của ba, là cuộc
đánh đổi hơn mười năm tù tội của một cụ ông bây giờ đang ngày ngày ngồi
nhìn ra cửa, không vui không buồn, không biết ngóng trông gì?
Và luôn luôn có một người phụ nữ đứng sau lưng ông: Má tôi, thân cò…
“lặn lội nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”. Người mẹ, người vợ đã chịu rất
nhiều thiệt thòi mất mát như bao người phụ nữ Việt Nam từ thời chiến đến
thời bình, nay cũng bắt đầu quên hiện tại mà chỉ nhớ những gì không đáng
nhớ trong quá khứ.
Tháng Bảy đối với gia đình tôi có nhiều chuyện không thể nào quên: Vui
buồn, đau khổ, tuyệt vọng rồi thành công.
Xin tri ân tất cả những gì đã trải qua, những ơn phúc được ban bố, những
kết quả trong hiện tại. Và tận trong lòng, tôi mãi mãi khắc ghi câu
chuyện mảnh giấy nhỏ ba tôi thả từ xe bịt bùng báo tin: “Ba đã bị đưa đi
trại 1 Tiên Lãnh” được cậu bé Bồ tát nhặt lên; đem giao tận tay anh hai
tôi. Đó luôn là câu chuyện nhiệm màu không giải thích được.
Atlanta- July 12, 2021
Nguyễn Diệu Anh Trinh |
|
Về lại: Trang Nhà Trang Tho Truyện |