|
Tôi
nhớ, tôi đã khóc và cãi bướng với ba tôi, ''Con làm văn sĩ, viết văn,
viết truyện khỏe re! Bí quá thì con cho nhân vật chính chết ... hoặc mê
man bại liệt là xong. Ba má muốn con làm bác sĩ lỡ xui xẻo bệnh nhân lìa
đời rồi con đi tù à?''. Nói gì thì nói, ba tôi đã phán cho tương lai tôi
một chữ A là chấm hết.
Mùa hè năm 1974, khi tình hình đất nước
đang sôi động vì chiến tranh, lũ chúng tôi lứa tuổi 15, 16 dường như vẫn
còn thờ ơ với thời cuộc lắm. Chẳng có gì quan trọng hơn những ngày trước
hè bằng những cuốn lưu bút chuyền từ tay đứa này sang tay đứa kia. Buồn
cười, trong lưu bút đứa nào như đứa nấy, thế nào cũng bắt đàu bằng ...
ve kêu, phượng nở ... hè sang, rồi ... lá bạc hà trong gió lao xao ...
rồi ... chia tay nhớ thầy cô, … nhớ bạn bè ... chao ơi! Chỉ có ba tháng
hè thôi, khai trường năm tới thế nào cũng gặp lại ở sân trường, dù có
khác ban, khác ngành thì cũng dưới mái nhà Hồng Đức, vậy mà ai nấy đều
than thở như là một cuộc chia ly ... ngàn trùng ... xa cách!
Lật từng trang lưu bút, đọc lại những
dòng chữ đã phai màu mực theo năm tháng, tôi như thấy lại hình ảnh tôi
và bạn bè tuổi mười bốn, mười lăm. Thuở mới biết làm duyên khi bắt gặp
một ánh nhìn từ đôi mắt ai kia xa lạ. Thoảng đâu đây mùi thơm dìu dịu
của lá bạchà, tiếng lao xao bước chân giờ tan học. Giọng thầy Cung thế
Mỹ vang lên từ loa phóng thanh của trường, ''Giờ toán cô Quy hôm nay
được nghỉ, các em ra phía sau văn phòng chơi ...'' và tiếp theo là tiếng
reo hò như đàn ong vỡ tổ của đám ''nữ sinh thùy mị''.
Thấp thoáng trong tôi, hình ảnh những tà
áo hoa, áo màu của các cô giáo bên cạnh màu áo trắng nữ sinh. Dáng dấp
quí phái của Bà Hiệu Trưởng, cô Thu Nga dạy Việt Văn. Hình ảnh các thầy
giáo trẻ hay bị đám nữ sinh chọc ghẹo, rồi vui tính như thầy Hạc dạy
công dân, thầy Tường dạy Toán. Lại có thầy cô rất cần mẫn, chăm lo cho
học trò như con, đó là thầy Nguyên, quản thủ thư viện, cô Ngọc Khuê dạy
Sử Địa. À, còn thầy Hoàng Bích Sơn nữa, mỗi tuần có một giờ dạy Nhạc mà
lớp tôi đứa nào cũng ... rét. Tôi còn nhớ cả những giọt nước mắt của cô
Tuyết Nha trong giờ Lý Hóa, khi nghe tin thành phố Huế và Quảng Trị chìm
trong khói lửa. Lúc đó nhỏ Nguyệt ngồi bên cạnh đã thúc cùi chỏ vào tôi,
''Ê, cô Nha cũng biết khóc mi ơi''. Vì cô Nha đẹp mà rất nghiêm, chúng
tôi âm thầm đặt cho cô cái tên ''lãnh diện giai nhân''. Chính vì thế mà
những giọt nước mắt của cô Nha trước tình hình đất nước đã làm chúng tôi
ngạc nhiên lẫn xúc động không ít. Trải
dài trong lưu bút còn là kỷ niệm những lần đi trại hè,
|
|
Khép cuốn lưu bút lại, tôi như còn nghe
được tiếng reo hò của cả lớp, khi chúng tôi đạt giải nhất bích báo. Vượt
qua nhiều lớp đàn chị trong trường là bích báo Hướng Dương của lớp tôi,
10A2 niên khóa 74-75. Với hình thức vừa đẹp vừa lạ, và có ý nghĩa. Đầu
mùa hè năm 75, trường Nữ trở thành một trong các trại tỵ nạn cho đồng
bào từ Huế và Quảng Trị vào, vì không muốn số phận tờ báo vô địch trở
thành vách ngăn các hố xí tạm trong sân trường, chúng tôi đã lén vào thư
viện để thu hồi “nhà vô địch Hướng Dương''. Tờ báo sau đó được tặng lại
cho thầy Thụy, là giáo viên hướng dẩn lớp tôi năm học 10A2. Năm cuối
cùng ở Nữ Trung Học Hồng Đức Đà Nẵng. Chấm dứt luôn bao nhiêu vàng son
trong đời học sinh đáng ghi nhớ. Có ai biết Hướng Dương giờ có còn hướng
về phương mặt trời hay chăng? Thầy cô ơi, bạn bè ơi ... trường xưa ...
Nếu cuốn lưu bút năm lớp chín ghi lại
trong tôi một thời hoa mộng thì cuốn vở nháp năm lớp mười hai lại là nơi
gói ghém nhiều điều ... bí ẩn khác.
Chỉ còn mấy tháng nữa là hết năm học,
tháng hai năm 1975, vừa xong ngày hội truyền thống Hai bà Trưng thì
không khí thành phố có nhiều thay đổi, bạn bè tôi lần lượt xuống trường
xin rút hồ sơ, đa số theo gia đinh di tản vào miền nam. Tháng ba năm đó,
chính quyền mới tiếp thu Đà Nẵng. Trường lớp và cả thành phố đều bị đổi
thay một cách khó chịu. Hai tháng cuối của năm học, học sinh đến trường
chỉ để dọn vệ sinh, học chính trị, học đồng ca những bản ''nhạc đỏ''
mang đậm ''tính chiến đấu''. Tôi có ông anh, học ở Kỹ Thuật Đà Nẵng thì
bị tôi dụ đến trường để kẻ dùm mấy câu khẩu hiệu trong phòng học. Phòng
nào như phòng nấy, nhan nhản khắp nơi là các khẩu hiệu về chính trị. Lớp
nào cũng có thêm một ''bí thư'', nhân vật quyền lực hơn cả lớp trưởng.
Thầy cô cũ có người còn được lưu dụng có người phải ra ngồi làm nhiều
nghề khác nhau, vì nhiều lý do. ''Mít
tinh'' là danh từ trở thành quen thuộc
cho mọi người, mọi lứa tuổi. Lại còn có vô số các hội
đoàn đủ loại ra đời. Cả thành phố, cả miền nam, mọi người như
quay cuồng trong một vòng xoáy, chẳng biết đi về đâu?
Cũng vào cuối năm học đó, trường Nữ bị
giải tán. Tôi trở thành học sinh Phan Châu Trinh theo “chính sách liên
cư liên địa''. Bạn bè tôi cũng vì thế mà phân tán nhiều nơi, đứa theo
cha mẹ về quê làm ruộng, đứa di tản cùng gia đình, cũng có một vài đứa
''tự nhiên'' trở thành ''cán bộ'' oai phong lắm! Tôi ghi danh đi học lại
cũng vào ban A. Theo chương trình học mới, ban A lại là ban Văn sử địa.
Thế là cái duyên hay cái nợ văn chương lại trở về như ý tôi. Lớp tôi chỉ
có hơn 30 học sinh, trong đó có 10 nam sinh.
Lúc này, không khí trường học không còn
cái trong sáng của học đường nữa. Ngày nào cũng họp hành, kiểm điểm, thi
đua, phê bình góp ý ... triền miên. Năm lớp mười hai tôi được bầu làm
lớp phó, phụ trách việc học tập. Do đó cuốn vở nháp được tôi xử dụng như
là ''nhật ký hành quân''. Ngày nào cũng ghi ghi, chép chép. Chỗ này là
''lễ phát động phong trào văn nghệ chào mừng ...'' chỗ kia là ''danh
sách học sinh yếu cần theo dõi ...'', một trang khác ghi, “... bản thu
hoạch đợt đi tham quan ...”. Ngó lại thấy mình cũng là một nhân vật quan
trọng đấy chứ! Xen kẻ trong vở nháp thinh thoảng là những lần ''bút
đàm'' trong giờ học. Tôi viết cho Kim Liên, nhỏ bạn ngồi bên cạnh, ''ê
mi, thằng khỉ Dũng viết thư bỏ vô vở tau, làm răng đây?''. Bạn viết lại
''thủ tiêu liền, coi chừng thằng bí thư đó''. Trang khác tôi viết cho
nhỏ bạn ngồi ở bàn trên, ''Nè, tối ni tới nhà tau, nói anh Hai tau mở
đài BBC cho mi nghe Sĩ Phú hát, Áo lụa Hà Đông. Tôi nhớ, con nhỏ này, đã
không biết bao lần phải viết kiểm điểm vì tội chép nhạc vàng, trốn lao
động rồi còn tội lớn nhất là ... mặc áo dài không có áo lót....(?) Cuốn
vở nháp còn hiện hữu là hình ảnh của chính tôi, với vô số những câu thơ
chép vội, ''Anh vẫn biết em ngồi đây tóc ngắn, mà mùa thu dài lắm ở
chung quanh,” thơ Nguyên Sa hay ''Mai anh đi rồi, bé có buồn không? Mai
anh đi nhớ bé vô cùng ..., “ thơ Tuổi Ngọc. Đôi khi còn là những suy
nghĩ rời được ghi xuống ''Ngày mai má đi thăm ba, có chút gì cay trong
mắt, xót trong lòng. Không biết bao giờ thì ba mình về?'', ''Tội nghiệp
con Thủy nhà nó bị đánh tư sản, chắc sẽ bị phê bình thê thảm ...''.
Có ai đã từng lớn lên giữa hai nền giáo
dục như lứa tuổi chúng tôi thì mới hiểu, khi ước mơ chưa kịp nẩy mầm thì
đã bị người lớn định đoạt, nói cho đúng là bị bóp nghẹt. Chúng tôi lao
vào học tập, làm tất cả mọi điều mà người lớn gọi là noi gương vị anh
hùng này, nối tiếp ý chí vị anh hùng kia, rồi một ngày tôi chợt nhận ra
rằng, cánh cửa đi vào tầng lớp trí thức, gần nhất là con đường vào đại
học, vĩnh viễn không bao giờ có tên mình. Cho dù tôi có học bao nhiêu
lớp học chính trị để phát tiển thành Đoàn viên thì mãi mãi tôi vẫn là
một "cảm tình Đoàn'' cho đến ... hết kiếp.
Nhìn vào cuốn vở nháp, đôi khi tôi rùng
mình nhớ lại cái cảm giác bị kiệt sức. Mới 17 tuổi, học lớp 12; cái tuổi
ăn chưa no, lo chưa tới tôi có lúc như bị gục ngã vì ... đói, những buổi
trưa ở lại trường với cái dạ dày đói mốc meo chỉ để chờ xuất học học
chính trị buổi chiều, hoặc để nghe một nhân vật lớn nào đó từ trung
ương, từ thành đoàn
về nói chuyện.
Bi đát hơn là sự hối hận đã dày vò tôi,
khi bức thư tình trong vở chưa kịp thủ tiêu đã bị thầy chủ nhiêm "phát
hiện". Do áp lực của các vị đảng viên trong lớp, thầy chủ nhiệm đã giáng
cho thủ phạm lá thư là thằng Dũng hạnh kiểm hạng D, cái tội "quan hệ nam
nữ bất chính'' khiến thằng Dũng không được thi tốt nghiệp cấp ba năm đó.
Bên cạnh đó tôi cũng nhiều lần bị mấy nhân vật trong ''chi bộ lớp'', đa
số là học sinh từ miền bắc vào, đưa tôi ra
phê bình trong các cuộc họp quan trọng,
chỉ với lý do là tư tưởng của tôi chưa được thông, còn giao du quá thân
mật với các học sinh có lý lịch không tốt, làm ảnh hưởng đền ''quá trình
phấn đấu'' của tôi. Ngược lại, hôm nào tôi đi học về chung đường với vài
đứa bạn mới, miền bắc, thì tôi lại bị các bạn miền nam xì xào, “cách
mạng 30, bon chen ...”. Đó là nỗi đớn đau của người đang sống giữa hai
lằn đạn. Tôi, một đứa con gái 17 tuổi, đục trong dòng đời chưa hề trải
qua, đang cố gắng hết sức mình chỉ mong có thể hòa mình vào xã hội mới.
Vậy mà tôi đã ra đời với hai bàn tay không, chút chữ nghĩa thời mộng mơ
Nữ trung Học Hồng Đức tôi gởi vào trong cuốn lưu bút, còn bao điều ”thâm
cung bí sử” trong hai năm dưới mái trường Phan Châu Trinh, có thầy Đồ
dạy Toán, có cô Anh dạy Văn luôn đi đôi với cô Ngọc Thanh dạy Sử Địa, có
những giờ tập thể dục giữa giờ ở sân trường rợp bóng mát với những hoa
phượng trên cành mỗi khi hè đến. Tất cả được tôi ghi vào cuốn vở nháp
năm lớp mười hai.
Ngày tôi rời Việt Nam thì trường
xưa cũng không còn nữa, tôi cũng không một lần ghé lại. Xa quê hương,
tôi mang theo mình cuốn lưu bút năm lớp chín và cuốn vở nháp năm lớp
mười hai như mang theo cả một đoạn đời vui buồn thời cắp sách. Dù vui
hay buồn, tôi biết chắc là những gì đã qua mãi mãi không bao giờ quay
trở lại. Mỗi khi mở gói ''kỷ vật'' ra, lòng tôi chợt bồi hồi.
Tôi
... nhớ...
|