ĐÀ NẴNG XA RỒI

 
 

Nguyễn Diệu Anh Trinh

 
   

          Tôi xa Đà Nẵng năm 37 tuổi, hành trang mang theo là đứa con gái nhỏ mới mười tuổi và một quá khứ hôn nhân đau buồn. Trong khi những đứa em tôi rơi nước mắt khi phải xa Đà Nẵng thân yêu, và rồi những ngày đầu định cư nơi vùng đất mới không ai ăn uống hay thích thú gì mặc dù so với đời sống của chúng tôi nơi quê nhà, Atlanta quả là một thiên đường, vậy mà ai cũng thẩn thờ nhớ nhung, lòng buồn nên cảnh vật cũng chẳng có gì hấp dẩn. Chỉ có mỗi hai mẹ con tôi là hớn hở vui, nếu không muốn nói đây là một chuyến ra đi đổi đời mà chắc nằm mơ tôi cũng không dám nghĩ đến.

    Tháng ngày qua đi, miệt mài với nổi lo cơm áo, và cố gắng học hỏi mọi điều để hoà nhập vào nền văn hoá mới khiến tôi ít có thời gian hồi tưởng về Đà Nẵng, hay nói đúng hơn, Đà Nẵng thuở ấy trong lòng tôi là một miền ký ức buồn nhiều hơn vui. Hình như ngày ra đi tôi không mong giây phút trở lại. Không phải hoàn cảnh thiếu thốn nghèo đói sau năm 1975 khiến tôi thành cánh chim biệt xứ mà tôi nghiệm ra rằng chính những khắc khe của xã hội thời đó đã không cho tôi một niềm tin hay một chút hy vọng để sống còn. Khi đời sống không có niềm tin để nuôi hy vọng thì còn có ý nghĩa gì? Vậy mà tôi cũng đã hít thở bầu không khí ngột ngạt ấy hơn hai mươi năm. Tôi nhớ đến tựa một tác phẩm đã học thuở trung học: Sống mòn!

  Do đó, tôi cứ tưởng Đà Nẵng cũng hoàn toàn khép lại như lòng tôi đang cố quên một dĩ vãng đớn đau. Có một nhạc sỹ đã diển tả niềm nhớ " Khi cố quên là ...khi lòng càng nhớ thêm".

Đúng thật, Đà Nẵng làm sao biến mất khỏi tâm thức tôi, bởi trong hồn tôi, tất cả những thi vị một thời, những đớn đau hạnh phúc, những đắng cay tủi nhục hay niềm vui vở oà ...tạo nên hai chữ:kỷ niệm, ... đều ghi dấu tại một miền đất tên gọi: Đà Nẵng.

Tôi nhớ gì? Căn nhà ấm êm thuở gia đình còn sum vầy cũng bị tịch thu, ngôi trường tôi ngầm hảnh diện là cô nử sinh áo dài tha thướt thuở nào cũng đã mất tên, con đường đẹp ngang trường tôi không còn cây xanh bóng mát
 

 

. Khu bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng, nơi tôi làm việc mấy năm trước khi ra đi nghe đâu cũng xoay mặt qua hướng khác; khu chợ Tam Giác, nơi tôi lăn lóc buôn gánh bán bưng ngày mới ra đời cũng đã xoá tên lâu rồi.

Tôi còn nhớ gì nữa? Nhớ một thời dể thương nơi ngôi trường rất đặc biệt có những dảy bạc hà xanh mướt. Bạn tôi nhớ hai hàng kiền kiền già cổi trước cổng trường, còn tôi thì nhớ đoạn đường từ trường Nử rẻ phải đi xuống bờ sông. Ngang nhà sách Việt, đối diện là trường Phan Châu Trinh. Mỗi chiều nghĩ học hai giờ sau là nhóm tôi kéo nhau xuống bờ sông, đi ngang qua hông trường Phan Châu Trinh bước chân bổng dưng cuống quýt, vài tiếng huýt sáo, vài tiếng nam sinh trường hàng xóm đếm: một hai, một hai.... khiến các cô đỏ mặt, chỉ biết nhìn nhau, vội bước, thật là một nét e lệ dể thương thời mới lớn. Qua khỏi ngả tư Duy Tân - Thống Nhất một đoạn là bắt đầu xuống một con dốc, hai bên đường là hai hàng dừa, bên phải sẽ có một cổng nhỏ rẻ vào khu cư xá Bưu Điện, nhà Quang Ấn trong này, cùng dãy nhà với hoa khôi Thuỳ Trâm của trường tôi.

  Đoạn đường rất ngắn này chúng tôi đặt tên là đường Hàng Dừa. Bên trái là Bưu Điện Đà Nẵng nằm chót vót trên mười mấy bậc thang cấp bằng đá mài. Từ những bậc thang này chúng tôi có thể nhìn thấy một kiosk bán tem thư và sách báo của mẹ Ấn, quay lưng ra hướng bờ sông. Cũng từ Bưu Điện tôi có thể phóng tầm mắt nhìn sang dãy Sơn Chà, rada của đài truyền hình Đà Nẵng ẩn hiện sau màn mây, dòng sông Hàn nước trôi lờ lửng, dảy ghế đá có những dây hoa giấy leo, lốm đốm những chùm hoa đủ màu. Xe nước mía, các chị bán hàng rong ...Và còn nữa, những cặp tình nhân đang dạo bước, gió chiều thổi tung tà áo dài của các cô thiếu nử, quấn quýt vào chân các chàng trai mặc quân phục.
 
Gió chiều còn thổi mơn man, đùa trên mái tóc dài khiến những cọng tóc của thiếu nử vướng vào bờ vai mạnh mẻ của chàng trai có phong cách hiên ngang đầy nam tính, thật là một hình ảnh đẹp của các mối tình thời ly loạn.

Các cụ ngày xưa có lời khuyên kẻ xa quê:

Thương cha nhớ mẹ thì về,

Cầm bằng thương cảnh nhớ quê thì đừng.

Chắc ngụ ý rằng cảnh vật sẽ đổi thay theo thời gian, chỉ có tình cảm là tồn tại. Tôi nhớ ai khi nghĩ về một Đà Nẵng xa xưa?

Tôi về thăm Đà Nẵng đôi lần, thấm thía lời dặn dò trong ca dao "thương cảnh nhớ quê thì ...đừng!" Một Đà Nẵng rất lạ, tuy rằng những đổi mới đã được mọi người nhìn nhận: sạch, đẹp, an ninh, êm đềm ...Những con đường mới được mở ra, những khu đô thị được xây dựng kiểu Tây phương, các siêu thị tên Tây, tên Hàn, ... Các tiệm bán thức ăn, quán nhậu mọc lên chen chúc. Riêng vùng bờ biển, niềm tự hào của người dân Đà Nẵng thì chi chít những khu nghĩ mát không mang tên Việt Nam nhưng lại trang trí, kiến trúc theo lối cổ truyền Việt Nam. Cũng có thể đây là một phong cách mới để thu hút khách du lịch chăng? Những cây cầu lớn bé liên tiếp được mọc lên nối liền hai bờ sông Hàn, tạo thuận lợi cho giao thông. Tôi nghĩ, không có một con sông nào ở Việt Nam chỉ trong một đoạn ngắn lại có nhiều cầu như sông Hàn của Đà Nẵng. Hằng năm, lể hội pháo bông huy hoàng cả một góc trời, đây cũng là một niềm tự hào của người dân Đà Nẵng chăng?

    Tôi được biết, hằng năm các trường đại học ở Đà Nẵng đã đào tạo được khá nhiều kỹ sư, chuyên viên các ngành nhưng, rất hiếm người tìm được việc làm tại Đà Nẵng. Điều này có nghĩa là Đà Nẵng không có những phát triển, về công nghiệp như các tỉnh phía nam. Đa số con cháu của bạn bè tôi phải vào Sài Gòn thì mới có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Điều này còn có nghĩa là Đà Nẵng đẹp, sạch, an ninh, vật giá tương đối dể chịu ... Nhưng lại là một Đà Nẵng dường như không dành cho tuổi trẻ, nếu không muốn nói Đà Nẵng là một thành phố yên bình ... để dưởng già. Bởi vì sau gần bốn mươi năm thống nhất, không chiến tranh, chỉ có xây dựng với tốc độ chóng mặt, trong khi đời sống người dân vùng ven vẫn còn lầm than, có gì để hảnh diện?

            Đôi lần về thăm Đà Nẵng tôi có cảm giác như mình đang du lịch ở một chốn lạ. Đà Nẵng có nhiều đổi mới mà lòng tôi thì cứ hoài cổ, cứ lang thang đâu đó về một miền ký ức xa xăm.

Tôi nhớ gì khi hồn tôi lang thang về Đà Nẵng? Tôi mường tượng đến một Đà Nẵng với nhiều con đường rợp bóng kiền kiền. Những cây kiền kiền cao to, che mát một khoảng trời dài, sâu hun hút từ đầu cho đến cuối đường. Ở một vài con đường, vào buổi trưa người ta có thể thấy vài bóng áo dài trắng ẩn hiện xa tắp, thấp thoáng những bóng nắng lung linh di chuyển theo bước chân tà áo trắng, thật là một hình ảnh mơ hồ. Trong tâm trí tôi còn nguyên hình ảnh những dãy villa xây từ thời Pháp ở đường Quang Trung, nấp sau những gốc cây cổ thụ gốc già to tướng hay những cây liểu rủ buồn hiu. Đây là những biệt thự cổ kính với lối kiến trúc quí phái, khoảng sân rộng nào cũng có trồng thật nhiều cây hoa hoàng hậu, lá tròn, hoa vàng óng ả. Mỗi lần đi học về ngang qua dãy biệt thự này, lòng một cô bé mười mấy tuôi như tôi thật tò mò và ao ước được một lân bước vào.

Đà Nẵng trong tôi cũng có một dòng sông rất hiền hòa, giản dị. Dọc bờ sông lác đác có những tàn cây sà la đà xuống mặt sông, nơi tôi và nhóm bạn hay lang thang ngắm mây trôi, đến điểm dừng chân cuối là khu Cổ Viện Chàm, thoảng đâu đây hương hoa sứ trồng ở sân Cổ viện dìu dịu trong gió. Tôi nhớ cả những con đường lá me ngắn và rất im vắng Trần Qúy Cáp, Nguyễn Du, con đường Gia Long rợp hoa phượng đỏ lá xanh khi hè đến, con đường Hùng Vương, Khải Định tấp nập ngay khu ngã tư chợ Cồn mà kéo dài ra phía biển Thanh Bình là đường Ông Ích Khiêm nơi tôi có rất nhiều bạn chung lớp. Đà Nẵng còn có những con đường nhộn nhịp làm nên khu thị tứ ngã năm: Phan Chu Trinh, Hoàng Diệu, Thành Thái …Riêng hai con đường Lê Lợi và Thống Nhất thì làm sao tôi không nhớ? Vì đó là nơi gắn liền với một thời đáng yêu của tôi: thời tôi còn đi học. Không thể nào quên  những món ăn thời đi học, quán bánh mì của bà Tàu đối diện cổng sau trường Nữ, bánh bèo trường Nam, những quán chè tấp nập bao tà áo trắng … và làm sao để quên được Đà Nẵng với những rạp xi nê mà đôi lần tôi từng hò hẹn.

 

 
 

Sau cuộc biển dâu 1975, hoàn cảnh đã để lại trong tôi những vết thương lòng khó phôi phai nhưng cuối cùng tôi cũng vượt lên được nhờ những cơ hội mà vùng đất mới đã trao tặng, kèm với chút nổ lực của bản thân. Tôi về Đà Nẵng vài lần, cảnh xưa đã đổi thay nhưng bạn tôi vẫn còn đó, đa số bây giờ đời sống gia đình đã ổn định, gặp nhau tay bắt mặt mừng. Ban đầu thì kể lể về chồng con, làm ăn sinh sống, sau thì tâm sự về gia nương, rồi dần dần chia sẽ nhau về cách nuôi dạy con cái, gởi cho nhau những thông điệp hay, bổ ích về đạo làm người, nhân cách sống hay truyền cho nhau kinh nghiệm bảo vệ hạnh phúc gia đình. Từ đó, chúng tôi rủ rê nhau giúp đở bạn bè gặp khó khăn …Khoảng cách không gian và thời gian đã không còn ảnh hưởng hay hạn chế nửa.

Đến nay, lứa chúng tôi đã lên chức ông bà, tình bạn không thu hẹp trong một lớp học ngày nào, chúng tôi có những sinh hoạt, gặp gở với các bạn lớp hàng xóm và cả những chị học trên vài lớp. Những buổi họp mặt thân tình khiến chúng tôi như trở về những năm tháng ngày xưa. Cùng đùa nghịch, cùng chia sẽ niềm vui nổi buồn, vì như một bạn tôi đã nói: “Chúng mình cùng có chung những kỷ niệm”. Hay nói rõ hơn là chúng tôi đã tìm thấy nhau trong kỷ niệm. Sau nhiều năm xa cách, gặp lại nhau, tôi nhận thấy những thay đổi của bạn bè chỉ là hình thức bên ngoài, những nếp nhăn, những càm ràm, những căn bệnh tuổi tác … đứa nào cũng như nhau chỉ có sớm hay trể, nhiều hay ít. Nụ cười vẫn vậy, cách nói chuyện không thay đổi và tình cảm bạn bè thì chắc chắn là chan chứa hơn. Khi tuổi đời chạm quá cột mốc năm mươi, dường như người ta chín chắn hơn, sâu lắng điềm đạm hơn, vì ít nhiều chúng tôi đã thấu đáo được lẻ vô thường của tạo hóa. Đà Nẵng, vì thế còn lại trong tôi là những tình thân thời còn đi học.

Nếu có được một ước mơ cho Đà Nẵng, tôi không mong Đà Nẵng sẽ hóa Rồng hóa Phượng để bay ra biển lớn, chỉ mong cho người dân quê tôi có đủ cơm ăn, áo mặc, trẻ con thôn quê, miền núi được đến trường trong an toàn. Thay vì sáu cây cầu cho một đoạn sông, ước sao những con suối, con sông nơi miền hẻo lánh cũng có được một chiếc cầu nối liền đôi bờ, đem chút chử nghĩa, văn minh đến cho dân nghèo đã bao nhiêu đời sống trong khốn khó, đây mới đáng là một Đà Nẵng với niềm tự hào đầy nhân bản.

Những ngày xa xứ, ngắm nắng vàng hiu hắt bên thềm, lòng tôi như chùng xuống,

… Người ơi, một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa

            ….Người ơi, chiều nào có thu về cho tôi nhặt lá thu rơi.

                  Tình có ghi lên đôi môi.

                  Sầu có phai nhòa cuộc đời.

                  Người có thương yêu loài người và yên vui sống cuộc sống vui

                  Ðời êm như tiếng hát của lứa đôi.” 

(Hương Xưa – Cung Tiến)

   
 

  Nguyễn Diệu Anh Trinh

 
  Trở về:
Trang Tho Truyện
Trang Nhà
Liên lạc: nutrunghocdanang@yahoo.com