Nha Trang, Dấu Chân Trên Cát
 
 

    

      Thành phố duyên hải miền Trung ấy có tên âm vang như hòn đá đang lăn, như tiếng sóng vỗ nhẹ trên ghềnh đá hay hình ảnh cánh chim hải âu bay vút lên trời xanh.

“Êa Trang”/“Aya Trang”, dòng sông bập bềnh hai bên bờ lau sậy từ suối nguồn Chiêm Thành vọng lại, được Việt hóa thành Nha Trang.

Lần đầu ghé bến Nha Trang cuối tháng 3/1975, không phải để thương nhớ cuộc tình vỗ cánh bay đi. Đêm nay còn cát trắng/Đêm nay còn tiếng sóng/Đêm nay còn trăng soi/Nhưng rồi chỉ còn tôi/Trên bãi đêm khóc người tình. Nha Trang Ngày Về/Phạm Duy.

Tôi rời Đà Nẵng trong cảnh hỗn mang sáng 28/3/1975, chạy ra bến cảng Tiên Sa, theo người quen tấp lên chiếc xà lan lênh đênh trên Vũng Thùng/Vịnh Đà Nẵng một ngày một đêm…Tình cảnh gần như tuyệt vọng. Sáng 30/3/1975, tàu Pioneer của Mỹ đến vớt, đưa đi Nha Trang. Khi leo thang dây lên mạn tàu Pioneer, tôi còn nhớ tờ mờ sáng hôm ấy, mưa xuân lất phất…

1/4/1975. Nha Trang Ngày Về là những bước chân lếch thếch trên biển, tôi chia xa vùng trời tự do, giã từ tháng ngày tuổi trẻ, chơi vơi  Đêm giữa ban ngày/Vũ Thư Hiên. Sau đó là Sài Gòn 30/4/1975.

Gần nửa thế kỷ qua nhanh…  

 

Mùa hè 1976, không khí Đà Nẵng ngột ngạt, bức bách, thở hết nổi, tôi cùng hai anh bạn giáo chức, dứt cháo bôn ba vào Sài Gòn xoay sở kiếm sống. Thay vì mua vé xe đò đi thẳng Sài Gòn, chúng tôi chia làm hai chặng: Đà Nẵng-Nha Trang-Nha Trang-Sài Gòn.

Nha Trang một năm sau mùa xuân buồn thiu. Ba đứa rủ nhau ra biển. Hình như mọi con đường ở Nha Trang đều quy về biển. Biển Nha Trang không thoai thoải như Đà Nẵng, chỉ mươi sải tay là đáy biển sụp xuống sâu. Cát hạt lớn, màu vàng như ở Thuận An, Huế. Biển buồn tê tái. Không một bóng người. Không một cánh chim. Da trời xanh ngắt. Sóng vỗ rì rào. Trùng dương hoang mang khắc khoải đến nao lòng.

Theo mấy dấu chân trên cát, tôi cất bước tìm về Nha Trang…

 

Nha Trang thuộc Champa. Sử Việt gọi vương triều hình thành năm 192 sau công nguyên ở miền Trung nước ta bấy giờ là Lâm Ấp/Lin Yi. Thuở Đại Việt còn trong vòng vây Bắc thuộc, Champa chia thành 5 tiểu quốc trải dài từ sông Gianh đến cửa ngõ Đồng Nai: Indrapura vươn mình từ sông Gianh là ngọn cờ lau phân chia đôi bờ Trịnh-Nguyễn đến quá Hải Vân, Amaravati, từ nam Hải Vân xuôi đến lưng chừng bờ Bắc “Sông Côn mùa lũ” của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Vijaya tương ứng với Bình Định, kéo dài đến Mũi Nạy/cap Varella. Kauthara trong đó có Nha Trang khởi đi từ vịnh Văn Phong/Vân Phong đến Cam Ranh, Panduranga, tiểu quốc cuối cùng của vương triều lừng lẫy, ôm lấy những đồng bằng duyên hải nắng gió miền Tam Phan: Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết.

Sau lần chinh phạt định mệnh của Đại Việt dưới triều Lê Thánh Tôn năm 1470 ở Chà Bàn/Vijaya, hào quang của vương quốc Champa tắt dần trên những cụm tháp bằng gạch nung rải rác dọc duyên hải miền Trung và cao nguyên Nam Trung Phần. Chiều tà buông chơi vơi trên vương triều Champa với nền văn hóa bản địa khởi đi  từ suối nguồn Ấn Độ giáo.

Kauthara trong đó có Nha Trang và vịnh Cam Ranh sáp nhập vào bản đồ Đại Việt gần 200 năm sau đó (1653).

Gần 400 năm trôi đi, Kauthara ơi! Sóng xô dạt về đâu?

Sóng chờn vờn tấp vào bờ cát. Tôi bước chân lên đồi phía bắc thành phố biển, trên đó có nhóm tháp Pô Ư Nagar/Tháp Bà…

Phía Tây là dãy Trường Sơn, sông Cái/Aya Trang trôi đi, từ thượng nguồn xuôi hạ lưu, dòng sông men theo những cánh đồng lúa chín, trước khi đổ ra biển Đông xanh thẳm. Toàn cảnh Tháp Bà gợi nhớ hình ảnh mandala với núi-sông-đồng lúa-biển cả, môt tiểu vũ trụ theo quan niệm Ấn Độ Giáo. Nghệ thuật, trong đó rõ nhất là kiến trúc và điêu khắc Chăm bắt nguồn từ tôn giáo. Thần Siva bên trong lá nhĩ (tympan) bằng sa thạch đang nhảy múa trên lối vào tháp chính. Bên trong tháp, tượng Nữ thần phương Nam, Bhagavati, áo xiêm rực rỡ trong khói hương nghi ngút. (*Người Chăm có tục đốt trầm hương nhưng không thắp nhang như người Việt).Tượng có niên đại khoảng 965, nghĩa là ba năm trước khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân, đóng đô ở Hoa Lư, đặt tên nước Đại Cồ Việt. Rất tiếc, đầu tượng nguyên thủy bị cướp mất, thay vào đó là đầu tượng Mẫu Thiên Y A Na của người Việt! Từ thượng ngàn, mẫu hóa thân vào tín ngưỡng dân gian bản địa vùng biển.

   
 
 

Thông thường, bố cục các nhóm tháp Chăm/kalan rải rác trên duyên hải miền Trung quy thành ba tháp chính nằm theo hướng Bắc-Nam và các tháp phụ. Tháp Bà có 4 tháp chính. Inrasara có nhận xét hay tuyệt: Tháp Chàm, những điều ít  được biết đến. Diễn Đàn Thế Kỷ. 10/3/2023) Từ Phú Yên trở ra Quảng Nam, các nhóm tháp Chăm là để dâng hiến và thờ phượng các thần linh Ấn Độ Giáo. Từ Phú Yên đi vào, tháp Chăm vươn lên trời xanh nhằm tôn vinh các vị vua, anh hùng hay danh nhân bản địa được thần thánh hóa. Có lẽ, vì thế mà tháp Bà Nha Trang, Po Glong Garai, Po Rome…ở Ninh Thuận gần gũi với con người, với cộng đồng Chăm hơn là Thung Lũng Thần Linh Mỹ Sơn ở Quảng Nam là nơi chỉ dành cho vương triều và giới tăng lữ bà la môn. Từ đó, Thánh địa Mỹ Sơn thường được các nhà nghiên cứu phương Tây so sánh với Delphes trong vũ trụ quan tâm linh Hy Lạp cổ đại.

Bên cạnh những bậc cấp men theo lưng đồi đưa đến nhóm tháp chính, về phía tay phải, nay chỉ còn những trụ cao trên nền gạch hoang phế. Thuở vàng son Chiêm Thành, di tích này là mandapa, tiền đình: không gian chuẩn bị thờ tự và tế lễ ở các tháp chính. Thánh địa Mỹ Sơn cũng có hai mandapa nằm song song, được nhà khảo cổ người Pháp Henri Parmentier ghi chú D1 và D2 thuộc nhóm tháp D, nay là hai bảo tàng tại chỗ. Tương truyền, kiến trúc Bảo Tàng Điêu Khắc Chăm Đà Nẵng hình thành cách đây hơn một trăm năm lấy cảm hứng từ hình ảnh những mandapa.

Từ Tháp Bà, nhìn về cửa sông Cái, hình ảnh xóm Bóng, xóm Cồn…gợi nhớ  những rừng dừa, nhấp nhô những hàng phi lao, quang cảnh làng chài ven biển, cảnh phụ nữ vá lưới, những con thuyền cập bến Nha Trang cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

Năm 1891, nhà bác học, nhà thám hiểm, con gấu già cô độc, Alexandre Yersin quyết định chọn Nha Trang làm nơi ghé bến.

Từ những chuyến hải hành xuôi ngược Sài Gòn-Hải Phòng kéo dài cả tháng với nhiệm vụ bác sỹ trên tàu Công Ty Đường Biển Pháp/Messageries Maritimes de France, thỉnh thoảng tàu thả neo, ông xuống đất liền cùng thủy thủ lo vận chuyển hàng hóa. Biển Nha Trang đã hớp hồn ông. Trong thư gửi mẹ Fanny, Yersin, một người Pháp gốc Thụy Sỹ, đứa con của núi rừng bạt ngàn vùng Vaud, thú nhận:”con sớm chán nản mọi thứ, trừ Nha Trang…”,”con đã thấy BIỂN.”

Vẫn theo con đường chạy dọc biển, tôi đến Viện Pasteur Nha Trang, rẽ trái để thăm Bảo Tàng Alexandre Yersin. Đó là một tòa nhà nhỏ, một trệt một lầu, nhìn ra đường Trần Phú., hàng phi lao, bãi cát, biển xanh. Bảo tàng với nhiều hình ảnh nguyên bản hay phục chế, chú thích Pháp ngữ, trình bày cô đọng và hấp dẫn cuộc đời của A. Yersin: thời thơ ấu ở Morges, Thụy Sỹ, đại học Y khoa Marburg ở Berlin, Đức, viện Pasteur Paris bên cạnh Pasteur, Calmette… Hồng Kông nơi Yersin tìm ra trực khuẩn ở chuột/Yersinia Pestis, nguyên nhân gây ra dịch hạch và phát minh vắcxin chống lại đại dịch. Yersin thành lập chi nhánh viện Pasteur Nha Trang, khai sinh Đại Học Y Khoa Hà Nội, khám phá Đà Lạt trong cảnh núi rừng hoang vu, vạch ra con đường đi bộ từ Trung Kỳ sang Campuchia, du nhập vào Việt Nam cây cao su, canhkina…

 
 

Nơi chiếu nghỉ cầu thang gỗ đen tuyền là mô hình chiếc thuyền buồm dân chài Nam Trung bộ. Những máy móc, thiết bị khoa học, kính viễn vọng…sắp xếp rất hợp lý cạnh lối đi cho thấy ông không chỉ nghiên cứu về vi khuẩn mà còn bước sang các lĩnh vực khác như thiên văn, khí tượng, thủy văn, dân tộc học, thực vật học, chăn nuôi, nhiếp ảnh…Địa hạt nào Yersin cũng cố gắng đi đến tận ngọn nguồn.

Nhà nghiên cứu Đoàn Cầm Thi, trong Lời bạt bản dịch “Yersin: dịch hạch & thổ tả”/Patrick Deville. Peste & Choléra.É. du Seuil.2012.Đặng Thế Linh dịch. Đoàn Cầm Thi và Hồ Thanh Vân hiệu đính.NXB Trẻ.2012. đã nhận xét: Yersin chạy trốn vinh quang nhưng không bao giờ chạy trốn thời đại của mình. (Trg 264.)

Tôi rất thích tầng 1 bảo tàng với phòng làm việc của A.Yersin, sát tường là tủ sách, nội dung đa dạng từ văn chương Hy-La, văn học cổ điển Âu Châu đến tiểu thuyết trinh thám. Bên ngoài hành lang là những tấm bản đồ ghi dấu những chuyến đi xuyên Đông Dương: Nha Trang-Đồng Nai (1894), Biên Hòa-Nha Trang (1893), Nha Trang-Phnom Penh (1892). Trên bàn viết là một ghi chú viết tay thú vị:” Đơn vị tính của người Mọi/ *người bản địa Cao Nguyên Nam Trung Phần (chú thích của người viết) là sải tay, 1 sải là chiều dài từ bàn tay này đến bàn tay kia khi dang thẳng hai cánh tay ra. Ví dụ: một sải vải đổi 4 con gà, 40 quả trứng.”

Đến Nha Trang, nếu có thể được, bạn ghé thăm Bảo Tàng Alexandre Yersin, bảo tàng nhỏ cho một nhân cách lớn. Qua bao biến thiên, không biết bên lối vào bảo tàng, vẫn còn mấy cây tra/raisins de mer vươn mình trước gió.

Từ những năm 1994,1995… khách phương Tây, đầu tiên là người Pháp, đổ xô sang Việt Nam, nhờ đó tôi đến Nha Trang thường xuyên hơn. Vẫn con đường ôm lấy bãi biển hình cánh cung mà có người ví von với Nice nhìn ra Địa Trung Hải, thành phố biển phía nam nước Pháp với “ con đường đi dạo của người Anh”/Promenade des Anglais…

Cả hai là những thành phố biển. Tuy nhiên, khí hậu Nha Trang hiền hòa hơn vì không chịu ảnh hưởng những đợt nắng gay gắt do gió Sirocco thổi từ hoang mạc Sahara đến. Gió mang theo cát bụi sa mạc màu hồng bay đến Nice, nhiều khi còn lan xa đến tận núi tuyết Alpes.

So với những tỉnh thành trên cả nước thuở ấy, Nha Trang đi tiên phong trong du lịch biển. Vị trí địa lý lý tưởng ở phía Nam Trung bộ, ít chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, số ngày nắng cao so với các tỉnh duyên hải miền Trung, ngoài khơi là đa dạng các đảo lớn nhỏ mà dân địa phương gọi là hòn, những làng chài, những bãi biển nguyên sơ, các rặng san hô, những vách núi lủng lẳng tổ yến…Tất cả thu hút khách du lịch, từ người Việt, khách đoàn phương Tây, khách ba lô đến khách Nga và Trung Quốc.

 
 

Nhớ khách sạn Hải Yến, nguyên là một tu viện của Dòng Chúa Cứu Thế Nha Trang, hình như trên góc nhà hàng vẫn còn lưu lại dấu ấn Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, nhớ khách sạn Viễn Đông được xây mới bên trong khuôn viên tu viện, nay tất cả đều bị đập phá để xây mới…Nhớ câu nói nổi tiếng:”Của César thì hãy trả lại cho César”. Nhớ khách sạn Yakasa gần đó…

Cái thuở ban đầu du lịch ấy, con người đối xử với nhau nghĩa tình, không thị tiền và lạnh lùng như bây giờ. Từ phương xa, du khách Pháp háo hức tìm lại những mảnh vỡ Đông Dương, thế hệ phương Tây sinh ra trong và sau Chiến Tranh Thế Giới lần thứ hai bị ám ảnh bởi cuộc nội chiến tương tàn Bắc-Nam. Đọc Annie Ernaux, Nobel Văn Chương 2023, Les Années/Năm tháng, tự truyện 254 trang, khổ sách bỏ túi, Folio 2022, ám ảnh Việt Nam cứ trở đi trở lại, như thủy triều trên biển Nha Trang. Với thế hệ chúng tôi, những anh chị em, giã từ trường học, ruộng đồng, chợ trời…dẫn khách Tây lang thang đây đó từ buổi đầu du lịch, thấy mình may mắn được… trẻ lại. Hai mươi năm vuột mất…như giọt cát chảy qua kẽ tay trên bãi biển một chiều thu muộn Nha Trang.

Nhớ Chợ Đầm tròn vo như cái bánh sinh nhật truyền thống. Hiếm có ngôi chợ nào ở VN có hình tròn. Gần đây (2023), đang có tranh luận: nên giữ lại hay phá bỏ chợ Đầm. Thiết nghĩ, nên trùng tu chợ Đầm theo nguyên trạng, mở ra nhà hàng, quầy kinh doanh hàng hóa du lịch như chợ lồng ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ. Một công đôi việc. Vừa giữ lại một biểu tượng của Nha Trang, vừa tiếp thêm sức sống cho chợ.

Không xa Chợ Đầm là nhà hàng Lạc Cảnh, chuyên các món nướng BBQ, khách đông, không khí bình dân, sôi động, giá mềm. Sau bữa ăn tối tận tình, dù gió biển Nha Trang mơn man, bạn bước ra khỏi quán, thấm đẫm các mùi hương như một cây xúc xích xông khói (Vietnam. Le Routard. Trg 385. 2019.Hachette)

Những địa chỉ ẩm thực cho khách đoàn thuở ấy là Viễn Đông, Lys…

 

   

Nhớ có lần đặt phòng nghỉ đêm ở Biệt Điện Cựu Hoàng Bảo Đại/Biệt thự Cầu Đá. Mở cửa phòng, ngoài khơi là biển xanh, nhưng lòng tôi thì… tím ngát. Biệt thự do một công ty du lịch địa phương quản lý nhưng quang cảnh buồn bã, nhếch nhác, thiếu bàn tay chăm sóc, tu sửa. Có lẽ, nhà Nguyễn đã bị lãng quên, trên những trang sách giáo khoa và trong cuộc mưu sinh tạm bợ, vội vã, ăn xổi ở thì.

Cuối đường Trần Phú là Hải Học Viện/Bảo Tàng Hải Dương Học Việt Nam, thành lập năm 1923. Thầy tôi, GS Nguyễn Hải là giám đốc Hải Học Viện trước 1975. 20 năm sau, khi tôi đưa khách du lịch vào thăm, hình như nơi này vẫn thế... Nhớ môn Hải Dương Học mà Thầy giảng dạy ở ban Địa Lý ĐHVK Huế. Thầy về đâu trong đại dương xanh ngắt cách đây gần nửa thế kỷ? R.I.P Thầy của chúng tôi.

Tôi đến bến thuyền Cầu Đá sớm mai. Tàu thuyền tấp nập. Ngoài kia là Hòn Miễu, Hòn Tằm, Hòn Tre, Hòn Nội, Hòn Mun…Như vịnh Hạ Long thuở ban đầu du lịch, tour đi thuyền thăm các đảo Nha Trang chỉ kéo dài một buổi hay một ngày, không lưu đêm trên tàu. Bến thuyền Cầu Đá nay tập đoàn Vinpearl/Vingroup chiếm trọn. Muốn “ra khơi”, phải đến bến tàu Vĩnh Xương.

Nhờ một duyên may, tôi được ngủ một đêm trên tàu Voile Viet Nam/Cánh buồm Việt nam. Hải trình của tàu là Nha Trang-Sài Gòn- đồng bằng sông Cửu Long. Đêm ấy, tàu neo ngoài vịnh Nha Trang. Tàu gỗ, thiết kế kiểu thuyền đi biển vùng Nam Trung Bộ, 10 cabin, thêm cánh buồm cho lãng mạn khi trời lộng gió.

Đêm trắng ngoài khơi Nha Trang, gặp em trên boong tàu vắng khách. Không nhớ đêm ấy trời có trăng sao? Chỉ nhớ câu chuyện của chúng tôi cuốn theo cả một thế hệ lớn lên trong cuộc chiến, tồn tại vất vưởng sau đó. Kể chuyện Nha Trang của em, thành phố biển nhất Việt Nam. Nhắc đến Xứ Trầm Hương/Quách Tấn, cuốn sách đánh mất từ những năm tháng ấy. Hình như Nha Trang phi chính trị, lãng đãng và lè phè nhất so với các thành phố trên dải đất duyên hải miền Trung. Ở đây, không có những cái đầu nóng, những trái tim bừng bừng nhiệt huyết hăm he…dịch chuyển vũ trụ, cải tạo thế giới, đi tìm một mô hình vọng tưởng. Nha Trang lành như cơn gió nồm miên man. Nha Trang nhàn du mộng tưởng. Nha Trang yêu sống như sóng biển trào dâng.

Câu chuyện có lúc rẽ sang hướng đi tìm một nhân vật Nha Trang tiêu biểu nhất. Em chần chờ mãi mới chọn nhà văn Cung Giũ Nguyên, tác giả Le fils de la baleine (Đứa con của cá voi), Le domaine maudit (Miền đất bị nguyền rủa)viết thẳng sang tiếng Pháp, tôi chọn Nguyễn Xuân Hoàng, người viết Mù Sương, Sinh Nhật, Người đi trên mây…Nguyễn Xuân Hoàng gần với thế hệ chúng tôi hơn.

Cánh buồm trắng Nha Trang đêm huyền hoặc ấy nay trôi mãi về đâu trên muôn nẻo bến bờ…

Nha Trang, trong trí nhớ chập chờn, cuối cùng chỉ còn lại hình ảnh dấu chân trên bãi biển. Gió mùa đông bắc đang về, những chiếc dù sắc màu rực rỡ được cuốn đi, chỉ còn trơ lại những lỗ hổng trên cát. Sóng, gió rồi sẽ xóa đi.

   
  Thầy Tống Văn Thụy
   
 

  Trang Thơ Truyện
Trang Nhà
Liên lạc: Nutrunghocdanang@yahoo.com